HẢI PHÒNG 18-2 (TH) - Cuộc đình công đòi tăng lương và cải thiện chế độ làm việc của giới công nhân Việt Nam không những vẫn còn kéo dài mà đã lan từ miền Nam ra tới miền Bắc Việt Nam.
“Khởi phát từ ngày 17-2-2006, hôm nay 4,000 lao động của Công ty TNHH Sao Vàng (huyện An Lão, thành phố Hải Phòng) tiếp tục đình công đòi tăng lương theo nghị định số 3 về lương tối thiểu trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).” Báo điện tử VNExpress cho hay như vậy trong ngày Thứ Bảy 18-2-2006 và thêm rằng “Ðây là cuộc đình công đầu tiên trong vòng 2 năm nay ở thành phố cảng.”
Báo trên thuật lời phàn nàn của công nhân nói mức lương tối thiểu trả cho công nhân quá thấp (400,000 đồng/người/tháng) vì thế tổng thu nhập của một lao động chỉ 700,000 đ/800,000đ/người/tháng. Không thấy báo này giải thích tiền tổng thu nhập gồm có những gì, nhất là làm thêm giờ. Vì vậy, công nhân đình công đòi “phải tăng lương tối thiểu lên 710,000 đ/người/tháng “theo đúng nghị định số 3 về lương tối thiểu trong doanh nghiệp FDI.”
Nhưng Phạm văn Oanh, Trưởng ban Chính Sách, Liên đoàn Lao Ðộng thành phố, nói với VNExpress rằng “Công nhân đã hiểu nhầm Sao Vàng là công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế, Sao Vàng là doanh nghiệp tư nhân 100% vốn trong nước, chuyên gia công mặt hàng da giày cho đối tác Ðài Loan.”
Ngày 5-1-2006, Phan văn Khải, thủ tướng CSVN, vội vàng ra nghị định buộc các xí nghiệp đầu tư ngoại quốc phải tăng lương tối thiểu cho công nhân thêm 40% sau khi xảy ra cuộc đình công tập thể tại trên dưới 60 công ty ở các khu vực Sài Gòn, Bình Dương và Ðồng Nai. Tuy nhiên, nghị định này lại lờ chuyện tăng lương cho công nhân tại các xí nghiệp có vốn đầu tư trong nước, dù là doanh nghiệp tư nhân hay quốc doanh, kinh tài đảng đoàn.
Ðể đối phó, theo VNExpress, “lãnh đạo công ty TNHH Sao Vàng đồng ý tăng lương tối thiểu bình quân 80,000 đồng/người”. Nhưng giới công nhân không chấp nhận vì “cho rằng mức tăng này quá thấp nên tiếp tục đình công với số người lên tới 4,000.”
Tổng số công nhân của công ty này khoảng 6,000 người.
Trong khi đó, tại Sài Gòn, theo tin báo Lao Ðộng ngày Thứ Bảy 18-2-2006 thì “Sáng 17-2 hơn 800 công nhân chi nhánh công ty khai thác chế biến nông-lâm sản cung ứng xuất khẩu Vyfaco (trụ sở ở khu kỹ nghệ Linh Xuân-Thủ Ðức) đã đình công. Công nhân cho rằng đây là một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chưa có kết luận) nhưng đến nay vẫn chưa điều chỉnh lương tối thiểu theo nghị định 03/2006/NÐ/CP nên mỗi ngày công nhân chỉ được trả 25,000 đồng. Trong khi đó, bữa cơm chỉ có 4,000đ/suất không đủ dinh dưỡng... Khi công nhân xin nghỉ phép, lập tức bị trừ lương.”
Báo LÐ còn nói thêm rằng Vyfaco không những không tăng lương cho công nhân mà mới đây còn loan báo thay đổi cách tính công làm cho người lao động bị thiệt.
Từ hơn một tuần nay, ít nhất có 12 công ty khu vực Sài Gòn xảy ra đình công với số người tham dự trên 15,000 người. Những ngày cuối tháng 12/05 sang đầu Tháng Giêng 2006 số công nhân tham dự các cuộc đình công, theo ước lượng của báo chí trong nước, khoảng 60,000 người.
Hồi Tháng 12-2005, bà Sonja Grush của Ủy Ban Công Nhân Quốc Tế, phân hội Áo quốc, trình bày trước tổ chức này (khi khi bà viếng thăm Việt Nam) rằng “Tổng Liên Ðoàn Lao Ðộng (CSVN) là một thành tố của Ðảng CSVN hơn là một tổ chức đại diện cho quyền lợi của giai cấp công nhân. Dù rằng luật lao động Việt Nam công nhận quyền đình công, nhưng các cuộc đình công vừa qua liên tục bị các quan chức nhà nước kết án là bất hợp pháp.” Ðài phát thanh RFA thuật lại như vậy hôm Thứ Bảy 12-8-2006. “Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam rúng động vì những loạt đình công đó, nên đã kiên quyết gia tăng hoạt động của họ tại các khu chế xuất, khu công nghiệp. Nhưng dĩ nhiên không phải là để đẩy mạnh việc tranh đấu cho quyền lợi công nhân, mà lại là nhằm giới hạn không để đình công lan rộng, có thể trở thành mối đe dọa cho sự bền vững của chế độ.”
Bản tin RFA còn nói thêm về nhận định của bà Grush rằng “công nhân Việt Nam nay đã nhận thức được sức mạnh tập thể của họ, và điều đó sẽ khiến nhà cầm quyền khó khăn hơn trong ý định chế ngự tập thể nghèo nhất và khổ nhất nước này.”
Bà cảnh cáo rằng “tình hình lao động rối ren như hiện nay còn tiếp diễn thì cuộc khủng hoảng năm 1997-1998 ở Việt Nam khi các nhà đầu tư bỏ chạy hàng loạt có thể sẽ còn tái diễn.” RFA kể.
“Khởi phát từ ngày 17-2-2006, hôm nay 4,000 lao động của Công ty TNHH Sao Vàng (huyện An Lão, thành phố Hải Phòng) tiếp tục đình công đòi tăng lương theo nghị định số 3 về lương tối thiểu trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).” Báo điện tử VNExpress cho hay như vậy trong ngày Thứ Bảy 18-2-2006 và thêm rằng “Ðây là cuộc đình công đầu tiên trong vòng 2 năm nay ở thành phố cảng.”
Báo trên thuật lời phàn nàn của công nhân nói mức lương tối thiểu trả cho công nhân quá thấp (400,000 đồng/người/tháng) vì thế tổng thu nhập của một lao động chỉ 700,000 đ/800,000đ/người/tháng. Không thấy báo này giải thích tiền tổng thu nhập gồm có những gì, nhất là làm thêm giờ. Vì vậy, công nhân đình công đòi “phải tăng lương tối thiểu lên 710,000 đ/người/tháng “theo đúng nghị định số 3 về lương tối thiểu trong doanh nghiệp FDI.”
Nhưng Phạm văn Oanh, Trưởng ban Chính Sách, Liên đoàn Lao Ðộng thành phố, nói với VNExpress rằng “Công nhân đã hiểu nhầm Sao Vàng là công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế, Sao Vàng là doanh nghiệp tư nhân 100% vốn trong nước, chuyên gia công mặt hàng da giày cho đối tác Ðài Loan.”
Ngày 5-1-2006, Phan văn Khải, thủ tướng CSVN, vội vàng ra nghị định buộc các xí nghiệp đầu tư ngoại quốc phải tăng lương tối thiểu cho công nhân thêm 40% sau khi xảy ra cuộc đình công tập thể tại trên dưới 60 công ty ở các khu vực Sài Gòn, Bình Dương và Ðồng Nai. Tuy nhiên, nghị định này lại lờ chuyện tăng lương cho công nhân tại các xí nghiệp có vốn đầu tư trong nước, dù là doanh nghiệp tư nhân hay quốc doanh, kinh tài đảng đoàn.
Ðể đối phó, theo VNExpress, “lãnh đạo công ty TNHH Sao Vàng đồng ý tăng lương tối thiểu bình quân 80,000 đồng/người”. Nhưng giới công nhân không chấp nhận vì “cho rằng mức tăng này quá thấp nên tiếp tục đình công với số người lên tới 4,000.”
Tổng số công nhân của công ty này khoảng 6,000 người.
Trong khi đó, tại Sài Gòn, theo tin báo Lao Ðộng ngày Thứ Bảy 18-2-2006 thì “Sáng 17-2 hơn 800 công nhân chi nhánh công ty khai thác chế biến nông-lâm sản cung ứng xuất khẩu Vyfaco (trụ sở ở khu kỹ nghệ Linh Xuân-Thủ Ðức) đã đình công. Công nhân cho rằng đây là một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chưa có kết luận) nhưng đến nay vẫn chưa điều chỉnh lương tối thiểu theo nghị định 03/2006/NÐ/CP nên mỗi ngày công nhân chỉ được trả 25,000 đồng. Trong khi đó, bữa cơm chỉ có 4,000đ/suất không đủ dinh dưỡng... Khi công nhân xin nghỉ phép, lập tức bị trừ lương.”
Báo LÐ còn nói thêm rằng Vyfaco không những không tăng lương cho công nhân mà mới đây còn loan báo thay đổi cách tính công làm cho người lao động bị thiệt.
Từ hơn một tuần nay, ít nhất có 12 công ty khu vực Sài Gòn xảy ra đình công với số người tham dự trên 15,000 người. Những ngày cuối tháng 12/05 sang đầu Tháng Giêng 2006 số công nhân tham dự các cuộc đình công, theo ước lượng của báo chí trong nước, khoảng 60,000 người.
Hồi Tháng 12-2005, bà Sonja Grush của Ủy Ban Công Nhân Quốc Tế, phân hội Áo quốc, trình bày trước tổ chức này (khi khi bà viếng thăm Việt Nam) rằng “Tổng Liên Ðoàn Lao Ðộng (CSVN) là một thành tố của Ðảng CSVN hơn là một tổ chức đại diện cho quyền lợi của giai cấp công nhân. Dù rằng luật lao động Việt Nam công nhận quyền đình công, nhưng các cuộc đình công vừa qua liên tục bị các quan chức nhà nước kết án là bất hợp pháp.” Ðài phát thanh RFA thuật lại như vậy hôm Thứ Bảy 12-8-2006. “Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam rúng động vì những loạt đình công đó, nên đã kiên quyết gia tăng hoạt động của họ tại các khu chế xuất, khu công nghiệp. Nhưng dĩ nhiên không phải là để đẩy mạnh việc tranh đấu cho quyền lợi công nhân, mà lại là nhằm giới hạn không để đình công lan rộng, có thể trở thành mối đe dọa cho sự bền vững của chế độ.”
Bản tin RFA còn nói thêm về nhận định của bà Grush rằng “công nhân Việt Nam nay đã nhận thức được sức mạnh tập thể của họ, và điều đó sẽ khiến nhà cầm quyền khó khăn hơn trong ý định chế ngự tập thể nghèo nhất và khổ nhất nước này.”
Bà cảnh cáo rằng “tình hình lao động rối ren như hiện nay còn tiếp diễn thì cuộc khủng hoảng năm 1997-1998 ở Việt Nam khi các nhà đầu tư bỏ chạy hàng loạt có thể sẽ còn tái diễn.” RFA kể.