HÀ NỘI – Trang báo điện tử của VnExpress hôm nay đưa tin rằng
“Những ngày này, lãnh đạo Công ty Cổ phần cung ứng nhân lực quốc tế và thương mại Sông Đà (Simco) như ngồi trên đống lửa. Tu nghiệp sinh gần kết thúc hợp đồng 2 năm làm việc tại xứ sở kim chi đồng loạt bỏ trốn khiến doanh nghiệp và cả chủ sử dụng Hàn Quốc "khóc dở, mếu dở".
Ông Trần Hoàng Khánh, Phó tổng giám đốc Simco, thông báo, trong hơn 100 người kết thúc hợp đồng vào tháng 7 tới thì 35-40% đã trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp. Tỷ lệ này tiếp tục gia tăng bởi từ tháng 7 đến hết năm 2006, Simco có 270 tu nghiệp sinh hoàn thành hợp đồng làm việc 2 năm tại Hàn Quốc.
... Không chỉ Simco, tình trạng lao động gần hết hợp đồng rủ nhau bỏ trốn diễn ra ở nhiều doanh nghiệp tham gia chương trình tu nghiệp sinh công nghiệp và tu nghiệp sinh xây dựng. Theo thông tin từ Bộ Tư pháp Hàn Quốc, hiện Việt Nam có khoảng 11.000 lao động bỏ trốn. Số này cư trú và làm việc bất hợp pháp, không báo với cơ quan đại diện.
Lý do thúc đẩy lao động phá vỡ hợp đồng là thu nhập. Họ sẵn sàng bỏ khoản tiền đặt cọc (chừng 50 triệu đồng), bỏ mấy tháng lương do chủ giữ vì sợ trốn (khoảng 3.000 USD). Lao động suy nghĩ đơn giản rằng nếu ở lại làm việc bất hợp pháp, với mức lương tháng 1.100-1.300 USD, họ có thể nhanh chóng gỡ lại khoản tiền đã mất.
Do đó Việt Nam dự tính sẽ áp dụng Pháp lệnh và bài báo viết tiếp như sau: “Theo dự luật đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài (dự kiến thông qua vào kỳ họp Quốc hội cuối năm 2006 và áp dụng từ đầu năm 2007) thì biện pháp buộc lao động bất hợp pháp về nước được coi là một biện pháp xử lý hành chính. Trường hợp lao động đã bị xử phạt hành chính, nhưng không về nước thì theo điều 274 của Bộ Luật hình sự, họ có thể bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.
Trước tình hình tu nghiệp sinh bỏ trốn gia tăng, ngày 23/6, Tham tán Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc, Đào Công Hải đã có công văn gửi Simco thông báo chính sách nhập cư của Hàn Quốc đối với lao động nước ngoài làm việc tại quốc gia này. Theo đó, lao động nước ngoài làm việc tại Hàn Quốc, sau khi kết thúc hợp đồng về nước đúng thời hạn, được phía Hàn Quốc có nhu cầu thuê sử dụng lại, đặc biệt được chủ cũ tuyển dụng lại, thì sau từ 1 đến 6 tháng kể từ khi xuất cảnh Hàn Quốc, có thể được phép tái nhập cảnh Hàn Quốc làm việc. Ngoài ra, chủ sử dụng Hàn Quốc cũng được tạo điều kiện hoàn tất thủ tục nhanh chóng để sớm tiếp nhận lại lao động mà họ có nhu cầu.
Thực ra vì tình trạng của người lao công Việt nam quá đói khổ nên mới cố gắng tìm cách đi làm ở nước ngoài. Nhưng một trong những lý do chính mà người lao sông bỏ trốn mà chính quyến Việt Nam không quan tâm đủ là vì lương của công nhân Việt Nam làm việc tại Hàn quốc hay quốc gia nào đó so với công nhân bản xứ cùng làm một việc nhưng lương người Việt được trả quá thấp. Do đó mới có sự trốn ra ngoài làm việc!
Tại sao lương của các công nhân Việt nam quá thấp, có thề là do các hãng trung gian môi giới ký hợp đồng ăn chặn đi, hoặc chính quyền cũng dự phần bớt xén đi số lương của họ, nên mới xẩy ra tình trạng bỏ trốn mà đi tìm việc khác.
Giả như chính quyền Việt Nam muốn giúp công nhân Việt Nam thì cần phải can thiệp để số lương cho công nhân Việt Nam được mức tương đương hoặc gần tương đương với công nhân bản xứ nơi họ làm việc, và nới lỏng những ràng buộc mất tự do, như buộc phải ở chung, không được đi lại thoải mái, v.v... thì sẽ tránh được cảnh bỏ trốn.
Hãy học kinh nghiệm nước Phi luật tân là nước đưa người đi làm bên ngoại quốc nhiều nhất. Có có chính sách cởi mở vừa lợi cho quốc gia (qua việc đóng thuế số lương) và qua việc chuyển tiền thu được về cho gia đình (làm tăng ngân qũi quốc gia) và thăng tiến đời sống người nghèo. Phi luật tân có chính sách cởi mở, bất kỳ ai được hãng ngoại quốc thâu nhận đều được chính quyền cấp giấy cho đi làm. Phi luật tân cũng có chính sách các Trung gian kiếm việc, nhưng họ chỉ là môi giới lúc đầu và đóng một khoản tiến nào đó nhất định, chứ không như một số trung gian đầu nậu ở Việt Nam, bắt người lao công thế chân rất cao và mỗi tháng còn trừ lương của công nhân đi.
Nếu công nhân Việt Nam sau một thời gian làm việc tỉ dụ tại Đại Hàn mà hết hợp đồng họ muốn ở lại làm việc thì chính quyền nên cấp giấy để hợp thức hóa cho họ đề họ làm việc, như vậy họ vừa có lợi tức nuôi sống cho gia đình vừa đóng thuế cho chính quyền. Lợi cả đôi đàng mà lại giải quyết được tình trạng nghèo khó ở Việt Nam vì chính quyền không lo và bảo đảm cho người dân có công ăn việc làm tương xứng. Nếu có việc làm tử tế thì ai muốn bỏ nước ra đi!
Cần nhất là phải tìm giải pháp hợp lý và công bằng cho công nhân Việt nam làm việc tại nước ngoài, một trong những điều kiện tiên quyết là bỏ cách ăn chặn tiền mồ hôi nước mắt của nhân công, bỏ những đầu nậu tham ô, và bảo đàm quyền lợi của nhân công Việt Nam đối với các quốc gia muốn sử dụng nhân công Việt Nam.
“Những ngày này, lãnh đạo Công ty Cổ phần cung ứng nhân lực quốc tế và thương mại Sông Đà (Simco) như ngồi trên đống lửa. Tu nghiệp sinh gần kết thúc hợp đồng 2 năm làm việc tại xứ sở kim chi đồng loạt bỏ trốn khiến doanh nghiệp và cả chủ sử dụng Hàn Quốc "khóc dở, mếu dở".
Ông Trần Hoàng Khánh, Phó tổng giám đốc Simco, thông báo, trong hơn 100 người kết thúc hợp đồng vào tháng 7 tới thì 35-40% đã trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp. Tỷ lệ này tiếp tục gia tăng bởi từ tháng 7 đến hết năm 2006, Simco có 270 tu nghiệp sinh hoàn thành hợp đồng làm việc 2 năm tại Hàn Quốc.
... Không chỉ Simco, tình trạng lao động gần hết hợp đồng rủ nhau bỏ trốn diễn ra ở nhiều doanh nghiệp tham gia chương trình tu nghiệp sinh công nghiệp và tu nghiệp sinh xây dựng. Theo thông tin từ Bộ Tư pháp Hàn Quốc, hiện Việt Nam có khoảng 11.000 lao động bỏ trốn. Số này cư trú và làm việc bất hợp pháp, không báo với cơ quan đại diện.
Lý do thúc đẩy lao động phá vỡ hợp đồng là thu nhập. Họ sẵn sàng bỏ khoản tiền đặt cọc (chừng 50 triệu đồng), bỏ mấy tháng lương do chủ giữ vì sợ trốn (khoảng 3.000 USD). Lao động suy nghĩ đơn giản rằng nếu ở lại làm việc bất hợp pháp, với mức lương tháng 1.100-1.300 USD, họ có thể nhanh chóng gỡ lại khoản tiền đã mất.
Do đó Việt Nam dự tính sẽ áp dụng Pháp lệnh và bài báo viết tiếp như sau: “Theo dự luật đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài (dự kiến thông qua vào kỳ họp Quốc hội cuối năm 2006 và áp dụng từ đầu năm 2007) thì biện pháp buộc lao động bất hợp pháp về nước được coi là một biện pháp xử lý hành chính. Trường hợp lao động đã bị xử phạt hành chính, nhưng không về nước thì theo điều 274 của Bộ Luật hình sự, họ có thể bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.
Trước tình hình tu nghiệp sinh bỏ trốn gia tăng, ngày 23/6, Tham tán Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc, Đào Công Hải đã có công văn gửi Simco thông báo chính sách nhập cư của Hàn Quốc đối với lao động nước ngoài làm việc tại quốc gia này. Theo đó, lao động nước ngoài làm việc tại Hàn Quốc, sau khi kết thúc hợp đồng về nước đúng thời hạn, được phía Hàn Quốc có nhu cầu thuê sử dụng lại, đặc biệt được chủ cũ tuyển dụng lại, thì sau từ 1 đến 6 tháng kể từ khi xuất cảnh Hàn Quốc, có thể được phép tái nhập cảnh Hàn Quốc làm việc. Ngoài ra, chủ sử dụng Hàn Quốc cũng được tạo điều kiện hoàn tất thủ tục nhanh chóng để sớm tiếp nhận lại lao động mà họ có nhu cầu.
Thực ra vì tình trạng của người lao công Việt nam quá đói khổ nên mới cố gắng tìm cách đi làm ở nước ngoài. Nhưng một trong những lý do chính mà người lao sông bỏ trốn mà chính quyến Việt Nam không quan tâm đủ là vì lương của công nhân Việt Nam làm việc tại Hàn quốc hay quốc gia nào đó so với công nhân bản xứ cùng làm một việc nhưng lương người Việt được trả quá thấp. Do đó mới có sự trốn ra ngoài làm việc!
Tại sao lương của các công nhân Việt nam quá thấp, có thề là do các hãng trung gian môi giới ký hợp đồng ăn chặn đi, hoặc chính quyền cũng dự phần bớt xén đi số lương của họ, nên mới xẩy ra tình trạng bỏ trốn mà đi tìm việc khác.
Giả như chính quyền Việt Nam muốn giúp công nhân Việt Nam thì cần phải can thiệp để số lương cho công nhân Việt Nam được mức tương đương hoặc gần tương đương với công nhân bản xứ nơi họ làm việc, và nới lỏng những ràng buộc mất tự do, như buộc phải ở chung, không được đi lại thoải mái, v.v... thì sẽ tránh được cảnh bỏ trốn.
Hãy học kinh nghiệm nước Phi luật tân là nước đưa người đi làm bên ngoại quốc nhiều nhất. Có có chính sách cởi mở vừa lợi cho quốc gia (qua việc đóng thuế số lương) và qua việc chuyển tiền thu được về cho gia đình (làm tăng ngân qũi quốc gia) và thăng tiến đời sống người nghèo. Phi luật tân có chính sách cởi mở, bất kỳ ai được hãng ngoại quốc thâu nhận đều được chính quyền cấp giấy cho đi làm. Phi luật tân cũng có chính sách các Trung gian kiếm việc, nhưng họ chỉ là môi giới lúc đầu và đóng một khoản tiến nào đó nhất định, chứ không như một số trung gian đầu nậu ở Việt Nam, bắt người lao công thế chân rất cao và mỗi tháng còn trừ lương của công nhân đi.
Nếu công nhân Việt Nam sau một thời gian làm việc tỉ dụ tại Đại Hàn mà hết hợp đồng họ muốn ở lại làm việc thì chính quyền nên cấp giấy để hợp thức hóa cho họ đề họ làm việc, như vậy họ vừa có lợi tức nuôi sống cho gia đình vừa đóng thuế cho chính quyền. Lợi cả đôi đàng mà lại giải quyết được tình trạng nghèo khó ở Việt Nam vì chính quyền không lo và bảo đảm cho người dân có công ăn việc làm tương xứng. Nếu có việc làm tử tế thì ai muốn bỏ nước ra đi!
Cần nhất là phải tìm giải pháp hợp lý và công bằng cho công nhân Việt nam làm việc tại nước ngoài, một trong những điều kiện tiên quyết là bỏ cách ăn chặn tiền mồ hôi nước mắt của nhân công, bỏ những đầu nậu tham ô, và bảo đàm quyền lợi của nhân công Việt Nam đối với các quốc gia muốn sử dụng nhân công Việt Nam.