Cuộc gặp gỡ cuối cùng của Đức Phanxicô tại Budapest diễn ra tại Khoa Kỹ thuật Thông tin và Sinh học của Đại học Công Giáo Péter Pázmány, nơi ngài nói chuyện với các đại diện của giới học thuật và văn hóa Hung Gia Lợi.

Trong bài phát biểu của ngài, Đức Giáo Hoàng tập chú vào việc sở đắc nhận thức mà theo ngài “bao hàm việc không ngừng gieo trồng hạt giống đâm rễ vào mảnh đất thực tại và sinh nhiều hoa trái phong phú”. Sau đây là nguyên văn bài nói chuyện của ngài, dựa vào bản tiếng Anh do Tòa Thánh phổ biến.



Anh chị em thân mến, chào anh chị em buổi chiều!

Khi chào từng người trong anh chị em, tôi bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với những lời chào mừng tốt đẹp của anh chị em, mà tôi sẽ đề cập tới trong giây lát. Đây là cuộc gặp gỡ cuối cùng trong chuyến thăm Hung Gia Lợi của tôi, mà tôi rất biết ơn. Ở đây tôi nghĩ về dòng sông Danube, nối kết đất nước này với nhiều quốc gia khác, thống nhất không những địa lý mà cả lịch sử của họ nữa. Theo một nghĩa nào đó, văn hóa giống như một dòng sông lớn: nó chảy qua và kết nối nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống và lịch sử, giúp chúng ta lèo lái trong thế giới này và ôm lấy các quốc gia và vùng đất xa xôi. Nó nuôi dưỡng trí tuệ, thỏa mãn linh hồn và thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Chính hạn từ văn hóa bắt nguồn từ động từ vun trồng: nhận thức đòi hỏi phải liên tục gieo những hạt giống bén rễ trong mảnh đất thực tại và sinh hoa trái phong phú.

Một trăm năm trước, Romano Guardini, một trí thức vĩ đại và một người có đức tin sâu sắc, khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một hồ nước tráng lệ và những ngọn đồi xung quanh, đã có một cái nhìn sâu sắc về văn hóa đương thời. Như ngài đã viết: “Những ngày này, tôi đã nhận ra rất rõ ràng rằng có hai cách để biết. Một là đắm chìm vào sự vật và bối cảnh của nó. Mục đích là thâm nhập, di chuyển vào bên trong, sống với nó. Tuy nhiên, cách còn lại là mở gói, xé toạc, sắp xếp thành từng ngăn, tiếp quản và cai trị” (Những bức thư từ Hồ Como: Những khám phá về Kỹ thuật và Loài người, Edinburgh, 1994, trang 43). Guardini phân biệt giữa nhận thức dịu dàng, có tương quan và tinh thông, mà ngài mô tả là “cai trị bằng phục vụ, sáng tạo từ những khả năng tự nhiên, không vi phạm các giới hạn đã đặt ra” (tr. 45), và là một cách nhận biết khác, “không kiểm tra; nó phân tích. Nó không xây dựng một bức tranh về thế giới, mà là một công thức… một quy luật có thể được xây dựng một cách hợp lý” (tr. 44).

Ở hình thức nhận thức thứ hai này, vật chất và năng lực đều hướng về một mục đích duy nhất: máy móc (xem tr. 46). Kết quả là “một kỹ thuật kiểm soát người sống đang phát triển” (tr. 47). Guardini không coi kỹ thuật như ma quỷ, vì nó giúp cải thiện cuộc sống, thông đạt và mang lại nhiều lợi ích, nhưng ngài cảnh cáo về nguy cơ nó có thể kiểm soát, nếu không muốn nói là thống trị, cuộc sống của chúng ta. Ngài đã thấy trước một mối đe dọa lớn: “[trong trường hợp đó] chúng ta mất tất cả sự tiếp xúc bên trong mà chúng ta có thể có được từ cảm thức về tỷ lệ và việc tuân theo các hình thức tự nhiên. Chúng ta trở nên không có hình thức, tỷ lệ và phương hướng từ bên trong. Chúng ta võ đoán ấn định các mục tiêu của mình và buộc các sức mạnh làm chủ của tự nhiên phải thực hiện chúng” (tr. 48). Và ngài để lại cho hậu thế một câu hỏi hóc búa: “Cuộc sống sẽ ra sao nếu nó bị trao cho quyền lực của sự thống trị này?” (tr. 49). Điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta trở thành đối tượng cho các mệnh lệnh của kỹ thuật? “Một hệ thống máy móc đang nhấn chìm sự sống… Liệu sự sống có thể giữ được đặc tính sống động của nó trong hệ thống này hay không?” (sđd.).

Cuộc sống có thể giữ được đặc tính “sống” của nó không? Đây là một câu hỏi thích hợp để hỏi, đặc biệt là ở nơi này, một trung tâm nghiên cứu về kỹ thuật thông tin và khoa sinh học. Sự thật mà nói, phần lớn những gì Guardini dự đoán dường như hiển nhiên đối với chúng ta ngày nay. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến cuộc khủng hoảng sinh thái, trong đó thiên nhiên chỉ đơn thuần phản ứng đối với sự khai thác nó bởi bàn tay của chúng ta. Chúng ta có thể nghĩ đến việc thiếu các ranh giới [đạo đức], não trạng cho rằng “nếu có thể làm được thì được phép làm”. Chúng ta cũng có thể nghĩ về xu hướng không tập trung vào con người và các mối liên hệ của họ, mà tập trung vào cá nhân, mải mê với nhu cầu của mình, tham lam thu quén và quyền lực, và hậu quả là sự xói mòn các mối liên hệ cộng đồng, với kết quả là sự tha hóa và lo lắng không còn đơn thuần là những cuộc khủng hoảng hiện sinh, mà là những vấn đề xã hội. Có bao nhiêu cá nhân bị cô lập, mặc dù chìm đắm trong các phương tiện truyền thông xã hội, nhưng bản thân họ ngày càng trở nên ít “xã hội” hơn, và, như thể trong một vòng luẩn quẩn, thường tìm đến sự an ủi của kỹ thuật để lấp đầy sự trống rỗng nội tâm của họ. Sống với tốc độ điên cuồng, làm mồi cho chủ nghĩa tư bản tàn nhẫn, họ đau đớn ý thức được tính dễ bị tổn thương của mình trong một xã hội mà tốc độ bên ngoài đi đôi với sự mong manh bên trong. Tôi đề cập đến điều này không phải để tạo ra chủ nghĩa bi quan – vì điều đó sẽ trái ngược với niềm tin mà tôi vui mừng tuyên xưng – mà đúng hơn là để suy gẫm về sự xấc xược ngạo mạn của niềm tự hào và quyền lực đã bị nhà thơ Homer tố cáo vào buổi bình minh của nền văn hóa châu Âu, mà mô hình kỹ trị đã làm trầm trọng thêm, và, thông qua việc sử dụng một số thuật toán, đe dọa gây bất ổn hơn nữa cho hệ sinh thái nhân bản của chúng ta.

Trong một cuốn tiểu thuyết mà tôi thường trích dẫn, The Lord of the World [Chúa Thế Giới], của Robert Hugh Benson, chúng ta đọc “kích cỡ [không] đồng nghĩa với sự vĩ đại, và một bên ngoài nhất quán không thể loại trừ một bên trong tinh tế” (New York, 1908, tr. xxv). Cuốn sách đó, được viết cách đây hơn một thế kỷ, ở một mức độ nào đó có tính tiên tri khi mô tả về một tương lai bị thống trị bởi kỹ thuật, trong đó mọi thứ trở nên nhạt nhẽo và độc dạng nhân danh sự tiến bộ, và một “chủ nghĩa nhân đạo” mới được tuyên bố, hủy bỏ sự đa dạng, triệt tiêu sự khác biệt của các dân tộc và xóa bỏ tôn giáo. Các ý thức hệ đối lập đồng qui và một chế độ thực dân ý thức hệ chiếm ưu thế, khi, trong một thế giới do máy móc điều hành, loài người dần dần bị suy giảm và các mối quan hệ xã hội bị suy yếu. Trong thế giới kỹ thuật tiên tiến nhưng nghiệt ngã do Benson mô tả, với dân chúng ngày càng bơ phờ và thụ động, rõ ràng là người bệnh nên bị phớt lờ, thực hành trợ tử và xóa bỏ ngôn ngữ và văn hóa, để đạt được một nền hòa bình phổ quát không gì khác hơn là một áp bức dựa trên sự áp đặt của một sự đồng thuận. Như một trong những nhân vật của ông đã mô tả: “thế giới dường như sống động một cách kỳ lạ… như thể toàn bộ sự việc đều xúc động và căng thẳng” (ibid., p. 125).

Tôi nhận ra rằng tôi đã trình bày một viễn cảnh khá ảm đạm, nhưng chính trong viễn cảnh này, tôi tin rằng chúng ta có thể đánh giá cao vai trò quan trọng đặc biệt của học thuật và văn hóa trong đời sống xã hội. Một trường đại học, như chính tên gọi của nó, là nơi tư duy xuất hiện và phát triển theo cách vừa cởi mở vừa hợp xướng. Đó là một “ngôi đền” nơi nhận thức được giải phóng khỏi những ràng buộc của “tích lũy và sở hữu” và do đó có thể trở thành văn hóa, nghĩa là “sự vun trồng” nhân tính chúng ta và các mối liên hệ nền tảng của nó: với thể siêu việt, với xã hội, với lịch sử và với sáng thế. Như Công đồng Vatican II đã nói: “Văn hóa phải hướng tới sự hoàn thiện toàn diện của nhân vị, vì lợi ích của cộng đồng và toàn xã hội loài người. Nó phải vun trồng tâm trí theo cách khuyến khích khả năng ngạc nhiên, hiểu biết, chiêm niệm để hình thành các phán đoán cá nhân và vun trồng ý thức tôn giáo, luân lý và xã hội” (Gaudium et Spes, 59). Về phương diện này, tôi đánh giá rất cao những gì các diễn giả của chúng ta đã nói. Tôi nghĩ về nhận xét của ngài, thưa Đức ông Viện trưởng, khi nói rằng “trong mỗi nhà khoa học chân chính đều có một chút gì đó của vị luật sĩ, vị linh mục, nhà tiên tri và nhà huyền nhiệm”. Và một lần nữa, “với sự trợ giúp của khoa học, chúng ta không chỉ tìm cách hiểu mà còn làm điều đúng, đó là xây dựng một nền văn minh nhân bản và liên đới, một nền văn hóa và môi trường bền vững. Vì với tấm lòng khiêm nhường, chúng ta không những có thể leo lên ngọn núi của Chúa, mà còn leo lên những đỉnh cao của khoa học.”

Như chúng ta biết, các nhà trí thức vĩ đại nhất đều thực sự là những người khiêm tốn. Dù sao, mầu nhiệm của cuộc sống được tiết lộ cho những người biết quan tâm đến những điều nhỏ nhặt. Dorottya đã đưa ra một luận điểm tuyệt vời: “Khi chúng ta đào sâu vào những chi tiết nhỏ nhất, chúng ta thấy mình đắm chìm trong sự phức tạp của công trình Thiên Chúa”. Nhìn theo cách này, văn hóa thực sự bảo tồn và bảo vệ nhân loại chúng ta. Nó khiến chúng ta đắm chìm trong sự chiêm niệm và lên khuôn những con người không chạy theo mốt nhất thời, nhưng có nền tảng vững chắc trong thực tại của sự vật. Và là những người, trong tư cách những người học hỏi khiêm tốn, cảm thấy có nghĩa vụ phải cởi mở và thông đạt, không bao giờ khuất phục và hiếu chiến. Trên thực tế, những người yêu thích văn hóa đích thực không bao giờ cảm thấy hoàn toàn hài lòng; họ luôn trải qua một sự thao thức nội tâm lành mạnh. Họ nghiên cứu, họ đặt câu hỏi, họ chấp nhận rủi ro và họ tiếp tục thăm dò. Họ có thể vượt lên trên những điều chắc chắn của mình và khiêm nhường lao mình vào mầu nhiệm của cuộc sống, mầu nhiệm bộc lộ chính nó cho những người bồn chồn chứ không phải những người tự mãn, cởi mở với các nền văn hoá khác và kêu gọi chia sẻ nhận thức. Đó là tinh thần của trường đại học, và tôi cảm ơn bạn đã trải nghiệm nó như vậy. Giáo sư Major đã nói như vậy khi ông nói về sự hài lòng đến từ việc hợp tác với các tổ chức giáo dục khác trong các chương trình nghiên cứu chung và chào đón sinh viên từ các nơi khác trên thế giới, chẳng hạn như Trung Đông, và đặc biệt từ Syria bị chiến tranh tàn phá. Chính nhờ sự cởi mở với người khác mà chúng ta hiểu rõ bản thân mình hơn.

Văn hóa đồng hành cùng chúng ta trên hành trình tìm hiểu bản thân. Tư tưởng cổ điển, bất diệt, nhắc nhở chúng ta về điều này. Câu châm ngôn nổi tiếng từ đền thờ Delphi xuất hiện trong tâm trí tôi: “Hãy biết chính mình.” Đó là suy nghĩ đầu tiên trong hai suy nghĩ mà tôi muốn để lại cho anh chị em khi chúng ta kết luận. Những chữ đó có nghĩa là gì: Biết chính mình? Chúng khuyên chúng ta nên có khả năng nhận ra những hạn chế của mình và do đó, hạn chế tính tự phụ. Điều này chứng tỏ hữu ích chính bởi vì, một khi chúng ta nhận ra rằng chúng ta là những tạo vật, chúng ta trở nên sáng tạo. Chúng ta học cách hòa mình vào thế giới thay vì cố gắng thống trị nó. Tư duy kỹ trị theo đuổi một sự tiến bộ không thừa nhận giới hạn, tuy nhiên con người bằng xương bằng thịt rất mong manh, và chính nhờ trải nghiệm điều này, họ nhận ra sự phụ thuộc của mình vào Thiên Chúa và mối liên hệ của họ với người khác và với sáng thế. Do đó, dòng chữ tại Delphi mời chúng ta đến với một loại nhận thức, bắt đầu từ sự khiêm tốn trước các hạn chế của chúng ta, dẫn chúng ta khám phá tiềm năng đáng kinh ngạc của mình, vượt xa tiềm năng của kỹ thuật. Hiểu biết về bản thân, nói cách khác, mời gọi chúng ta giữ lại với nhau, theo một phép biện chứng đạo đức, sự mong manh và sự vĩ đại của chúng ta trong tư cách con người. Sự ngạc nhiên trước nghịch lý này làm nảy sinh văn hóa: không bao giờ hài lòng, không ngừng tìm kiếm, thao thức nhưng được kêu gọi bước vào cộng đồng, tự kỷ luật trong sự hữu hạn của nó nhưng lại cởi mở một cách tự do đối với thể vô hạn. Tôi cầu nguyện để anh chị em luôn trau dồi hành trình hân hoan hướng tới chân lý này!

Ý nghĩ thứ hai tôi muốn để lại với anh chị em có liên quan với chính sự thật đó. Nó phát xuất từ Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã nói: “Sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8:32). Hung Gia Lợi đã chứng kiến sự nối tiếp của các ý thức hệ tự cho mình là chân lý nhưng lại không mang lại tự do. Ngày nay cũng vậy, rủi ro vẫn còn. Tôi nghĩ tới việc thay đổi từ chủ nghĩa cộng sản sang chủ nghĩa tiêu dùng. Điểm chung của cả hai “chủ nghĩa” đó là một quan niệm sai lầm về tự do. Chủ nghĩa cộng sản đưa ra một “sự tự do” bị hạn chế, bị giới hạn từ bên ngoài, do người khác quyết định. Chủ nghĩa tiêu dùng hứa hẹn một thứ “tự do” theo chủ nghĩa khoái lạc, tuân thủ, phóng túng, nô lệ hóa con người đối với tiêu dùng và các đối tượng vật chất. Thật dễ dàng biết bao khi chuyển từ những giới hạn áp đặt lên tư duy, như trong chủ nghĩa cộng sản, sang niềm tin rằng không có giới hạn, như trong chủ nghĩa tiêu thụ! Chuyển từ tự do che mắt sang tự do không bị kiềm chế. Thay vào đó, Chúa Giêsu đưa ra một con đường phía trước; Người nói với chúng ta rằng sự thật giải phóng chúng ta khỏi những định kiến và sự hạn hẹp của chúng ta. Chìa khóa để tiếp cận sự thật này là một dạng nhận thức không bao giờ tách rời khỏi tình yêu, một kiến thức có tính tương quan, khiêm tốn và cởi mở, cụ thể và cộng đồng, can đảm và xây dựng. Đó là điều mà các trường đại học được kêu gọi để trau dồi và đức tin được kêu gọi để nuôi dưỡng. Và vì vậy, tôi mượn cơ hội này để bày tỏ niềm hy vọng rằng trường Đại học này, và thực sự là mọi trường đại học, sẽ luôn là ngọn hải đăng của tính phổ quát và tự do, một cuộc tập huấn hữu hiệu về chủ nghĩa nhân bản, một phòng thí nghiệm của hy vọng. Tôi ban phước lành cho anh chị em từ trái tim, và tôi cảm ơn anh chị em vì tất cả những gì anh chị em đang làm. Köszönöm szépen! [Cảm ơn rất nhiều!]