TÌM GIẢI OAN TRONG TÂM THỨC VIỆT
Câu hát trong trường ca Mẹ Việt Nam của nhạc sĩ Phạm Duy đang vang vọng đâu đây bật lên từ tiềm thức cộng thông của cả một dân tộc. Nỗi oan dằng dặc suốt chiều dài và chiều dày của lịch sử từ cái ngày Hai Bà Trưng trầm mình trong dòng sông Hát; rồi Mã Viện đã bẻ gẫy và chôn đi biểu tượng tinh thần của một lớp dân mà ông ta miệt thị là "Nam Man" (dân Mọi phương Nam) với câu trù yểm: Đồng trụ chiết, Giao chỉ diệt!
Nhớ xưa, nhớ Mẹ, nhớ Mẹ xưa.
Mẹ xuống sông rửa nhục anh hùng.
Mẹ trôi trên dòng sông Hát,
Nước ngược xuôi đưa Mẹ đi muôn nơi.
Nhớ chăng, nhớ Mẹ, nhớ Mẹ chăng?
Chôn đáy sông mối hận yêu chồng.
Chàng Trương có buồn thương, khóc...
Rước Mẹ lên, nước thiêng sẽ giải oan.
GIẢI OAN TRONG CHẤT MÁU VIỆT
Bá nhân bá tính. Ngay trong cùng một nước đã thấy tính người miền Bắc, miền Trung, và miền Nam có nhiều điểm khác nhau rồi. Do di truyền qua bao đời, do những biến cố thăng trầm của lịch sử, do địa dư và khí hậu khuôn đúc, do hoàn cảnh kinh tế tạo ra. Mỗi dân tộc lại mang những đặc tính riêng làm nên sắc dân mình, gọi là căn tính, phát khởi từ trong mạch máu.
Có tính tốt thì cũng có tính xấu. Có tính hướng nội, có tính hướng ngoại, tính thiên về đầu, tính thiên về tim. Có tính thiên về trực giác, có tính thiên về cảm quan. Không phải nét văn hóa nào cũng là thuần phong. Chẳng hạn như tục ăn thịt người, tục đa thê, tục đa phu nơi nhiều sắc dân trên thế giới. Nhiều hủ tục mê tín cũng phản tiến hóa lắm chứ.
Môn tính tình học ngày nay đề cao rất kỹ phương pháp Enneagram, chia tính tình con người ra 9 loại. Mỗi số đều do một động lực tiềm ẩn từ trong mạch máu đun đẩy để tìm những giá trị khác nhau do những nỗi sợ khác nhau. Mọi phản ứng và hành động của đời người đều phát khởi từ động lực này dưới lăng kính vô thức. Tiếng thời mới gọi là mặc cảm. Cái hay của phương pháp Enneagram là cho thấy được hướng đi của các loại tính phản ứng dây chuyền như hệ lụy theo mũi tên; đồng thời chỉ cho cách hóa giải.
Căn tính Việt Nam dường như gắn liền với thân mệnh của một dân tộc bị quá nhiều nỗi oan bầm dập và ray rứt dằng dặc trong suốt lịch sử. Thế nước mình nằm bên cạnh anh chàng Tàu khổng lồ luôn sẵn sàng ăn sống nuốt tươi. Số phận thấp cổ bé miệng cứ phải ráng mà sống còn, mà ngóc đầu lên. Không còn sức đâu mà xây dựng được một công trình gì to lớn, hay một hệ thống tư tưởng nào rõ nét. Mà có xây được thì cũng bị phá ngay. Vì thế mà sức đề kháng của người mình thật bén nhạy trong lúc bị ăn đòn, trong lúc phải chống đỡ, luôn tìm được lối lách và kiểu thoát. Nhưng cũng vì ăn quá nhiều đòn, chồng chất quá nhiều nỗi oan mà cũng tích vào thân quá nhiều hệ lụy nghiệt ngã, khiến cho thời bình đến thì lại loay hoay hoài cũng vẫn chưa tìm được điểm gì chung mà dựng xây. Cứ phải đi mượn râu ông về cắm cằm bà, thành ra đầu cua tai nheo.
Thà rằng như người Bách Việt cổ xưa ở vùng Lĩnh Nam, Quảng Ðông Quảng Tây, chịu khuất phục đồng hóa với dân Hán từ phương Bắc tràn xuống chiếm đoạt, thành người Tàu cho xong một bề. Ðàng này người mình cứ “cứng đầu,” dựng ải Bắc Quan mà chận lại, và rồi dù có bị cả ngàn năm đô hộ, mình cứ nhất định là mình, nên mới nên nông nỗi này! Rồi nỗi oan từ cả mấy thế kỷ tương tàn phi lý do chính người mình tận tình tạo ra cho nhau, từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Nỗi oan những cái chết tức tưởi do chính anh em phân thây nhau, đầy đọa nhau một cách thành khẩn để xây tháp ngà cho các chủ thuyết đâu đâu. Nỗi oan những thân xác da vàng máu Việt làm mồi cho cá Biển Ðông hay cho hải tặc Thái. Nỗi oan tan cửa nát nhà, chạy thục mạng đi ăn nhờ ở đợ khắp các vỉa đường thế giới. Nỗi oan bao nhục nhằn hấng chịu mấy chục năm qua, của lớp người thua thiệt cúi mặt trước đà tiến của mọi nước.
THỊ KÍNH GIẢI OAN
Nhưng lạ lắm. Những ai nghiên cứu văn hóa Việt đều ngạc nhiên khi thấy người Việt với ngần ấy khổ lụy mà vẫn ít bị điên, vẫn cứ “phây phây”:
làm sao cũng chẳng làm sao,
dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi.
Người Việt dường như nâng niu nỗi oan đã vốn như gắn liền với thân mệnh của mình, làm nên một gia sản tinh thần trong một cái nhìn tích cực: dù bất cứ oan nghiệt nào, người mình vẫn có sức chịu đựng được, và vẫn tìm ra cách giải oan. Không thấy bàn tới bác sĩ thần kinh, đi viện tâm lý trị liệu, hay uống thuốc độc tự tử. Truyện Thị Kính là một điển hình. Sở dĩ truyện Thị Kính đã trở thành như một di sản tinh thần của người mình, là vì truyền lại được cách giải oan kỳ diệu. Thị Kính âm thầm chịu đựng trước hết là do niềm tin vào Trời thấu suốt mọi bí ẩn, như ca dao đã từng nói lên:
- Ðèn Trời soi xét.
- Ai bảo Trời không có mắt.
- Trời nào có phụ ai đâu.
- Làm ơn ắt hẳn nên ơn
Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ.
Cho dù sau này đạo Phật, đạo Khổng, đạo Lão, có bước vào và phát triển mạnh ở Việt Nam, nhưng niềm tin căn bản vẫn là tin ở Trời. Thậm chí người theo đạo Phật cầu khẩn với Phật nhưng rồi cũng phải lên cao hơn nữa là cầu khẩn với Trời, vì thực ra đức Phật cũng chỉ là một người như ta mà đã giác ngộ được con đường giải thoát, còn Trời mới là cùng tận.
Em đi cầu khấn Phật Trời.
Niềm tin này đã là võ khí mạnh nhất để đương đầu với mọi nghịch cảnh, và cắt đứt được vòng xích trói buộc từ đời này qua đời kia. Tiếng thời mới gọi là vòng hệ lụy nghiệt ngã phát sinh do những oan trái này. Khoa Tâm Lý Miền Sâu ngày nay cho thấy ít ra ba hậu quả hệ lụy của người không được giải oan hay được chữa khỏi mặc cảm thì sẽ trở thành những hiện tượng:
- Hiện tượng 1: Người bị thương lại đi gây thương tích cho người khác nữa theo kiểu giận cá băm thớt, giận chó đá mèo, thành cái vòng luẩn quẩn tiếp diễn lây lan. Dấu rõ nhất là khó nết, hay cắn cấu, phê bình chỉ trích, bán ý kiến dạy bảo thiên hạ, hay đấm đá ăn thua đủ với đời kiểu “vết thù hằn trên lưng ngựa hoang,” phóng rọi cái bực bội hay bóng ma đen ẩn nấp bên trong ra chung quanh. Tiếng tâm lý Carl Jung bây giờ gọi là phóng chiếu (projection). Chuyện chia rẽ trong cộng đồng cũng có thể do những giẫy giụa đáng thương này.
- Hiện tượng 2: Do quá khứ thua thiệt nên phải sinh gỡ gạc bù trừ, kiếm thêm tí danh hão, khoe mẽ chút phù du để che lấp cái mặc cảm hụt hẫng bên trong một cách tội nghiệp, nhiều khi trở nên lố bịch thành cơn nghiện tham sân si không cùng. Những chuyện phân tranh giành giật triền miên giữa dòng họ này với hoàng triều khác, giữa phe này với cánh kia, có thể là do những ẩn ức hụt hẫng nên cứ phải ráng mà phồng lên, ai cũng phải làm lãnh tụ đòi mọi người đoàn kết nhất trí đứng sau lưng mình. Rồi mỗi lần như thế lại kéo theo bao nhiêu người vào phía này phía kia dựng cao bảng chính nghĩa mà xâu xé chém giết nhau một cách lãng phí. Con cháu Lê Lợi chu di tam tộc công thần Nguyễn Trãi, Đặng Trần Thường đánh chết Ngô Thời Nhiệm ở ngay Văn Miếu, Minh Mạng trút đòn hằn trên mộ danh tướng Lê Văn Duyệt và những người theo đạo mới...
- Hiện tượng 3: Bỏ cuộc trốn chạy, cố tìm quên cho khuây khỏa niềm đau xót, bi quan nhìn cuộc sống bằng đôi mắt đeo kính đen với những điệu than ai oán, nhiều khi phát điên hay tự tử vì những phi lý tận cùng: người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
QUI TRÌNH TÂM LÝ GIẢI OAN QUA NÉT VĂN HÓA VIỆT
Người mình xem ra có một lối sống gan lì ít bị điên mặc dù trải qua muôn vàn khổ nạn, vì mang sẵn chất máu dung hóa rất bén nhạy trước mọi nghịch cảnh. Gió rung cây thì lá rụng. Gió thổi rì rào và lá rụng mùa thu đẹp lắm chứ. Nhiều bài thơ đã bật lên từ cảnh thơ mộng này. Nét ẩn mật của tinh thần Việt vẫn là cái nhìn và cái thấy về cuộc đời, gọi là niềm tin, phát khởi từ niềm tin gốc trong truyện thiêng vẽ hình hoa văn giao long trên mình để làm bạn được với giao long dưới nước mà hóa giải được đối nghịch. Chữ văn hóa có thể bởi đó mà ra, là phương cách hóa giải, sống an nhiên giữa mọi nghịch cảnh cuộc đời. Từ con mắt nhìn và thấy này, cô Kiến An, ông Ðào, cô Lan, bé Woody hay anh Hải trong phim Ba Mùa đều có thể thả hoa xuống dòng đời, chuyển chất thơ, phả chất tình, bật chất lửa làm thay đổi cả một đời người.
Nhà tâm lý vào bậc nhất của thời đại là Carl Jung đã vẽ lên qui trình khoa học về tâm lý trị liệu làm cho con người hồi phục vuông tròn toàn mãn. Ông gọi qui trình này là Individuation đi tới được tâm điểm nguồn sống Chân Ngã (centering of the Self) qua những bước: khai trống màn chắn phàm ngã (unveiling the Persona), đối diện với bóng đen (confrontation with the Shadow), dung hóa đối nghịch (relating to the animus/anima).
1. Ðạo Trống: Ðây quả là nét căn bản bén rễ sâu trong tâm hồn Việt. Muốn tròn đầy thì bước đầu tiên là phải khai trống những mạch vít che phủ. Ðây cũng là biểu tượng gốc của mọi truyền thống tâm linh. Người Việt đánh trống để khai mạc một lễ nghi. Sứ điệp căn bản của trống đồng chính là cõi trống này. Cũng như miếng trầu là đầu câu chuyện, sẵn sàng nghiền nát phàm ngã với tham sân si đi thì mới phát sinh dòng tình đỏ thắm trong gặp gỡ thân thương. Nét trống này được gặp thường xuyên nơi những truyện thiêng như truyện Giếng Việt (Việt Tỉnh), truyện thánh Dóng lòng trống như ống tre ống trúc để nhận được tròn đầy sức thiêng từ Trời, để có thể mọc cánh bay lên. Vì thế mà trong lễ hội thánh Dóng có nghi thức rước lá trầu không. Tôi đã có dịp về tận đền Phù Đổng và học hỏi dân địa phương về tục rước trầu trong ngày lễ hội. Giáo sư Kim Ðịnh đã khai triển khá tỉ mỉ về những khía cạnh này trong Sứ Ðiệp Trống Ðồng và Kinh Hùng Khải Triết.
2. Ðối Diện với Bóng Ðen: Khoa tâm lý ngày nay cho thấy rằng càng trốn chạy hay dồn nén những điều trái nghịch thì càng thành động lực hành hạ bên trong, rồi phóng rọi bóng đen đó ra chung quanh một cách vô thức thành những hiện tượng như tâm bệnh, do mặc cảm. Vì thế mà người Do Thái có truyền thống bắt con cái phải kể lại những cơn ác mộng ban đêm chứ không được quên đi. Ðiều này phù hợp với truyện thiêng về tục vẽ mình (hoa văn) thành như thuồng luồng để khỏi bị tác hại khi xuống nước. Từ "văn hóa" có thể bởi đó mà ra.
3. Dung Hóa được Ðối Nghịch: Chấp nhận và thấy được nét tích cực nơi những gì vốn tác hại mình, như tâm tình của ca dao “đố ai quét sạch lá rừng” được diễn tả sâu sắc trong phim Ba Mùa, như nối kết cực âm với cực dương thành điện lực, như hòa mọi bổng trầm hay những điệu đục khàn của cuộc sống thành hòa khúc dịu êm. Ðó chính là đạo Trời. Ðây cũng là truyện Thôi Vỹ trong bộ kinh Lĩnh Nam với biết bao gian truân khổ nạn nhưng vẫn giữ vững niềm tin tưởng vào lòng thương người mà đạt ngọc Long Toại.
Người Việt nhìn lại những cơ cực khổ nạn suốt bao thế kỷ trong dòng lịch sử mà vẫn nâng niu vỗ về, như tâm tình của Nguyễn Thùy và Trần Minh Xuân trong Thay Lời Ngỏ của Tinh Thần Việt Nam:
Hỡi lịch sử ta thương mình quá đỗi
Ta thương mình vì bởi nỗi ta đau.
NGỒI BUỒN ĐỐT MỘT ĐỐNG RƠM
Khoa Tâm Lý Trị Liệu sau nhiều nghiên cứu mới khám phá ra được tiến trình chữa trị, mà bước đầu tiên là phải đối diện với nỗi đau và cho bộc lộ lên được chứ không chôn vùi. Vì nếu càng tìm cách trốn chạy hay vùi lấp thì nó càng trở thành động lực bên trong hành hạ và phóng chiếu (project) ra thành những con ma đen ghê sợ: Biết than cùng Trời, biết thở cùng ai! Bài dân ca mộc mạc của người mình không ngờ lại nói lên được tiến trình này.
Ngồi buồn đốt một đống rơm
Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào
Khói bay tới tận thiên tào
Ngọc Hoàng phán hỏi thằng nào đốt rơm?
Niềm đau và nỗi oan được trút ra thành một đống rơm cho cháy đi bốc khói chẳng thơm tho chút nào. Nhưng khi khói bay cao làm cay mắt ông Trời thì ông liền quát hỏi: thằng nào đốt rơm? Bài dân ca dễ thương và hay quá! Ngọc Hoàng là Ông Trời ở đây không còn cao xa mãi cõi mông lung trên kia, mà đã trở thành rất người, rất gần gũi. Ngài cũng bị khói đen của những nỗi oan làm cay mắt, biết “quan âm” được niềm xót đau của người đang giãi bày tâm sự. Vậy mà Ngài còn hỏi “thằng nào đốt rơm?” Hỏi để mà cho có chuyện chứ Ngài đã biết ai rồi. Người đang than thở giữa trời bỗng nhận ra có Trời biết lắng nghe thông cảm. Ðây mới chính là giây phút giải oan của người mình: Trời nào có phụ ai đâu! Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ!
Như vậy, then chốt của cuộc giải oan hồi phục tinh thần phát khởi từ một Niềm Tin ăn sâu trong mạch máu dân mình. Bài học phục hưng Do Thái vẫn là một khuôn mẫu để đời, đặc biệt vì mang thân mệnh rất giống Việt Nam. Không hiểu vì một lý do huyền bí nào mà hai nước nhỏ bé ở hai cực tây và đông Châu Á là Do Thái và Việt Nam lại chịu một số mệnh tàn khốc như nhau, và cùng mang một niềm tin căn bản vào ông Trời thật giống nhau. Như vậy là có mang một sử mệnh nào không hay cũng chỉ là một may rủi tình cờ? Người Do Thái tin vào sử mệnh của mình nên đã là nơi phát sinh hai tôn giáo lớn là Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo, và cống hiến được biết bao nhân tài lỗi lạc cho thế giới. Còn người mình có mang một sử mệnh nào cho một nhân loại mới thoát ra khỏi cáí gọng kìm duy vật và duy con vật không?
Vào thời kỳ đi đầy ở đế quốc Babylon vào thế kỷ thứ sáu trước công nguyên, số phận của người Do Thái được diễn tả như một đống xương khô nằm rải rác khắp cánh đồng, hoàn toàn chia rẽ bi thảm và thất vọng. Vậy mà Ezekiel, người cùng bị phát lưu sang Babylon, đã dám tin vào một cuộc kết nạp phục sinh Do Thái.
Giữa những bế tắc như đi vào hầm tối mịt mù, Ezekiel vẫn bật sáng được tia hy vọng vào niềm tin nơi ông Trời vẫn đang dẫn đầu cuộc hành trình của dân tộc ông. Và ông đã thành công khắc sâu được niềm tin này nơi những người đang rã rời thất vọng vì mất hướng.
KHI NGƯỜI DO THÁI TÌM ÐƯỢC TỤ ÐIỂM
Có thật rằng người Tầu, người Nhật, người Do Thái đoàn kết hơn người Việt? Tôi không nghĩ như vậy. Dân Do Thái cũng là tập hợp của nhiều bộ tộc với nhiều khuynh hướng trái ngược nhau, nhất là trong hoàn cảnh ly tán mỗi người một nẻo, mỗi người một giải pháp để sống còn. Vậy mà họ vẫn tạo được sức mạnh chung. Ðâu là bí mật?
Chắc chắn lớp dân Do Thái tản mát đi khắp nơi đã trở nên rã rời chia rẽ như một đống xương khô. Nhưng họ không tốn sức than trách đổ tội hoặc buông xuôi, hay chỉ kêu gọi đoàn kết suông giữa không khí. Càng nhân danh văn hóa, nhân danh chính nghĩa, nhân danh tự hào dân tộc, càng thêm mất tin tưởng, càng thêm chia rẽ, càng thêm bẽ bàng, chỉ vì chưa có căn bản nào làm tụ điểm. Trong cảnh huống này, Ezekiel đã bật lên một viễn kiến từ một niềm tin, và Isaia cùng với ”Nhóm Do Thái Sót Lại” (Remnant of Israel) tạo được một phong trào thể hiện được một kế hoạch thực tiễn. Ðó là phải tìm cho ra tụ điểm tinh thần.
Họ đã gom tất cả các truyện thiêng từ những huyền thoại của dân tộc Do Thái, từ những câu truyện truyền miệng từ đời này sang đời khác, cho đến những lễ nghi tế tự và phong tục, những bài ca dao tục ngữ, những lời răn dạy khôn ngoan, đều được kính cẩn thu lại thành văn bản. Và điều chắc chắn là tất cả những cuốn sách mà ta gọi là Cựu Ước (Old Testament) như văn bản ta có ngày nay, đã chỉ thành hình vào thời kỳ trước và sau thời lưu đầy ở Babylon vào thế kỷ thứ sáu trước công nguyên. Nói cách khác, bộ kinh Do Thái chỉ thành hình do hoàn cảnh đòi hỏi này, dưới con mắt bật sáng của niềm tin, tạo nên một trào lưu phổ biến bằng chương trình giáo dục đại chúng. Vì thế mà họ đã phát động xây những hội đường giống như cái đình làng ở bất cứ nơi nào có người Do Thái sinh sống, để có nơi tụ họp thường xuyên mà học hỏi và thực hành kinh điển ứng dụng cho đời sống.
Lịch sử dân tộc phải có một ý nghĩa và hướng đi chứ không phi lý lãng nhách. Vì họ tin vào ông Trời dẫn đầu và nối kết tất cả lại như những sợi chỉ mầu trong một tấm thảm lớn. Trong nhãn quan này, họ bắt đầu ghi lại truyện tổ tiên từ một gia đình nhỏ bé của quốc tổ Abraham, sống nghề du mục nay đây mai đó suốt từ Ur tới Haran vùng Mesopotamia rồi vòng xuống Ai Cập. Tổ tiên như vậy thì chưa chắc đã có gì đặc sắc so với những dân đương thời, nhưng đối với người Do Thái thì quan trọng lắm. Từ trong cảm nghiệm, họ ”thấy” rõ họ là dân được tuyển chọn để qui tụ với một sứ mạng, có tổ có nguồn đàng hoàng. Và nhiều câu truyện truyền kỳ khác về khởi nguyên dân tộc họ được gom lại, khiến họ càng có một độ rung chung với nhau về nguồn gốc, và tự nhiên hãnh diện về bản sắc của mình. Cũng như đám anh em tản mát bỗng tìm lại được mẹ làm tổ ấm qui tụ gia đình. Quả thực, phép lạ hồi sinh Do Thái đã phát khởi từ một niềm tin, thể hiện thành một bộ kinh tin làm tụ điểm tinh thần.
ĐI TÌM TRỤ ÐỒNG VIỆT TỘC
Người Việt cần tìm ra cách giải được nỗi oan, vượt qua được mặc cảm, hồi phục được tinh thần. Ðể phục hưng, ai cũng nghĩ ngay tới những giải pháp kinh tế, xã hội, những kế hoạch kỹ nghệ, khoa học, đào tạo nhân tài v.v. Ðiều này thật đúng và cần thiết. Nhưng quan trọng trước hết vẫn là chủ đạo, vẫn là nỗ lực tìm ra được tụ điểm tinh thần qua bộ Kinh Tin Việt Tộc.
Rất may, Việt tộc cũng có cả một truyền thống kho tàng truyện thiêng truyền miệng qua bao thời, với lòng tôn kính Tứ Bất Tử qua các lễ hội, và một kho tàng vô giá ca dao tục ngữ như hơi thở của linh hồn Việt tộc. Bao giờ mình mới xác tín được tầm mức rất ư then chốt này để cùng xây dựng một bộ kinh tin làm trụ đồng mang uy lực qui tụ?
Đúng vậy. “Mất bộ truyện thiêng là mất mạch nối vào nguồn tổ tiên, và không còn căn bản gì cho việc hình thành tiền đồ dân tộc. Dân tộc đó quả thực coi như đã mất.” (Wallace Cliff, Jung and Christianity, Crossroad, trang 60)
Lm. Trần Cao Tường, e-mail andytuong@cox.net
Câu hát trong trường ca Mẹ Việt Nam của nhạc sĩ Phạm Duy đang vang vọng đâu đây bật lên từ tiềm thức cộng thông của cả một dân tộc. Nỗi oan dằng dặc suốt chiều dài và chiều dày của lịch sử từ cái ngày Hai Bà Trưng trầm mình trong dòng sông Hát; rồi Mã Viện đã bẻ gẫy và chôn đi biểu tượng tinh thần của một lớp dân mà ông ta miệt thị là "Nam Man" (dân Mọi phương Nam) với câu trù yểm: Đồng trụ chiết, Giao chỉ diệt!
Nhớ xưa, nhớ Mẹ, nhớ Mẹ xưa.
Mẹ xuống sông rửa nhục anh hùng.
Mẹ trôi trên dòng sông Hát,
Nước ngược xuôi đưa Mẹ đi muôn nơi.
Nhớ chăng, nhớ Mẹ, nhớ Mẹ chăng?
Chôn đáy sông mối hận yêu chồng.
Chàng Trương có buồn thương, khóc...
Rước Mẹ lên, nước thiêng sẽ giải oan.
GIẢI OAN TRONG CHẤT MÁU VIỆT
Bá nhân bá tính. Ngay trong cùng một nước đã thấy tính người miền Bắc, miền Trung, và miền Nam có nhiều điểm khác nhau rồi. Do di truyền qua bao đời, do những biến cố thăng trầm của lịch sử, do địa dư và khí hậu khuôn đúc, do hoàn cảnh kinh tế tạo ra. Mỗi dân tộc lại mang những đặc tính riêng làm nên sắc dân mình, gọi là căn tính, phát khởi từ trong mạch máu.
Có tính tốt thì cũng có tính xấu. Có tính hướng nội, có tính hướng ngoại, tính thiên về đầu, tính thiên về tim. Có tính thiên về trực giác, có tính thiên về cảm quan. Không phải nét văn hóa nào cũng là thuần phong. Chẳng hạn như tục ăn thịt người, tục đa thê, tục đa phu nơi nhiều sắc dân trên thế giới. Nhiều hủ tục mê tín cũng phản tiến hóa lắm chứ.
Môn tính tình học ngày nay đề cao rất kỹ phương pháp Enneagram, chia tính tình con người ra 9 loại. Mỗi số đều do một động lực tiềm ẩn từ trong mạch máu đun đẩy để tìm những giá trị khác nhau do những nỗi sợ khác nhau. Mọi phản ứng và hành động của đời người đều phát khởi từ động lực này dưới lăng kính vô thức. Tiếng thời mới gọi là mặc cảm. Cái hay của phương pháp Enneagram là cho thấy được hướng đi của các loại tính phản ứng dây chuyền như hệ lụy theo mũi tên; đồng thời chỉ cho cách hóa giải.
Căn tính Việt Nam dường như gắn liền với thân mệnh của một dân tộc bị quá nhiều nỗi oan bầm dập và ray rứt dằng dặc trong suốt lịch sử. Thế nước mình nằm bên cạnh anh chàng Tàu khổng lồ luôn sẵn sàng ăn sống nuốt tươi. Số phận thấp cổ bé miệng cứ phải ráng mà sống còn, mà ngóc đầu lên. Không còn sức đâu mà xây dựng được một công trình gì to lớn, hay một hệ thống tư tưởng nào rõ nét. Mà có xây được thì cũng bị phá ngay. Vì thế mà sức đề kháng của người mình thật bén nhạy trong lúc bị ăn đòn, trong lúc phải chống đỡ, luôn tìm được lối lách và kiểu thoát. Nhưng cũng vì ăn quá nhiều đòn, chồng chất quá nhiều nỗi oan mà cũng tích vào thân quá nhiều hệ lụy nghiệt ngã, khiến cho thời bình đến thì lại loay hoay hoài cũng vẫn chưa tìm được điểm gì chung mà dựng xây. Cứ phải đi mượn râu ông về cắm cằm bà, thành ra đầu cua tai nheo.
Thà rằng như người Bách Việt cổ xưa ở vùng Lĩnh Nam, Quảng Ðông Quảng Tây, chịu khuất phục đồng hóa với dân Hán từ phương Bắc tràn xuống chiếm đoạt, thành người Tàu cho xong một bề. Ðàng này người mình cứ “cứng đầu,” dựng ải Bắc Quan mà chận lại, và rồi dù có bị cả ngàn năm đô hộ, mình cứ nhất định là mình, nên mới nên nông nỗi này! Rồi nỗi oan từ cả mấy thế kỷ tương tàn phi lý do chính người mình tận tình tạo ra cho nhau, từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Nỗi oan những cái chết tức tưởi do chính anh em phân thây nhau, đầy đọa nhau một cách thành khẩn để xây tháp ngà cho các chủ thuyết đâu đâu. Nỗi oan những thân xác da vàng máu Việt làm mồi cho cá Biển Ðông hay cho hải tặc Thái. Nỗi oan tan cửa nát nhà, chạy thục mạng đi ăn nhờ ở đợ khắp các vỉa đường thế giới. Nỗi oan bao nhục nhằn hấng chịu mấy chục năm qua, của lớp người thua thiệt cúi mặt trước đà tiến của mọi nước.
THỊ KÍNH GIẢI OAN
Nhưng lạ lắm. Những ai nghiên cứu văn hóa Việt đều ngạc nhiên khi thấy người Việt với ngần ấy khổ lụy mà vẫn ít bị điên, vẫn cứ “phây phây”:
làm sao cũng chẳng làm sao,
dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi.
Người Việt dường như nâng niu nỗi oan đã vốn như gắn liền với thân mệnh của mình, làm nên một gia sản tinh thần trong một cái nhìn tích cực: dù bất cứ oan nghiệt nào, người mình vẫn có sức chịu đựng được, và vẫn tìm ra cách giải oan. Không thấy bàn tới bác sĩ thần kinh, đi viện tâm lý trị liệu, hay uống thuốc độc tự tử. Truyện Thị Kính là một điển hình. Sở dĩ truyện Thị Kính đã trở thành như một di sản tinh thần của người mình, là vì truyền lại được cách giải oan kỳ diệu. Thị Kính âm thầm chịu đựng trước hết là do niềm tin vào Trời thấu suốt mọi bí ẩn, như ca dao đã từng nói lên:
- Ðèn Trời soi xét.
- Ai bảo Trời không có mắt.
- Trời nào có phụ ai đâu.
- Làm ơn ắt hẳn nên ơn
Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ.
Cho dù sau này đạo Phật, đạo Khổng, đạo Lão, có bước vào và phát triển mạnh ở Việt Nam, nhưng niềm tin căn bản vẫn là tin ở Trời. Thậm chí người theo đạo Phật cầu khẩn với Phật nhưng rồi cũng phải lên cao hơn nữa là cầu khẩn với Trời, vì thực ra đức Phật cũng chỉ là một người như ta mà đã giác ngộ được con đường giải thoát, còn Trời mới là cùng tận.
Em đi cầu khấn Phật Trời.
Niềm tin này đã là võ khí mạnh nhất để đương đầu với mọi nghịch cảnh, và cắt đứt được vòng xích trói buộc từ đời này qua đời kia. Tiếng thời mới gọi là vòng hệ lụy nghiệt ngã phát sinh do những oan trái này. Khoa Tâm Lý Miền Sâu ngày nay cho thấy ít ra ba hậu quả hệ lụy của người không được giải oan hay được chữa khỏi mặc cảm thì sẽ trở thành những hiện tượng:
- Hiện tượng 1: Người bị thương lại đi gây thương tích cho người khác nữa theo kiểu giận cá băm thớt, giận chó đá mèo, thành cái vòng luẩn quẩn tiếp diễn lây lan. Dấu rõ nhất là khó nết, hay cắn cấu, phê bình chỉ trích, bán ý kiến dạy bảo thiên hạ, hay đấm đá ăn thua đủ với đời kiểu “vết thù hằn trên lưng ngựa hoang,” phóng rọi cái bực bội hay bóng ma đen ẩn nấp bên trong ra chung quanh. Tiếng tâm lý Carl Jung bây giờ gọi là phóng chiếu (projection). Chuyện chia rẽ trong cộng đồng cũng có thể do những giẫy giụa đáng thương này.
- Hiện tượng 2: Do quá khứ thua thiệt nên phải sinh gỡ gạc bù trừ, kiếm thêm tí danh hão, khoe mẽ chút phù du để che lấp cái mặc cảm hụt hẫng bên trong một cách tội nghiệp, nhiều khi trở nên lố bịch thành cơn nghiện tham sân si không cùng. Những chuyện phân tranh giành giật triền miên giữa dòng họ này với hoàng triều khác, giữa phe này với cánh kia, có thể là do những ẩn ức hụt hẫng nên cứ phải ráng mà phồng lên, ai cũng phải làm lãnh tụ đòi mọi người đoàn kết nhất trí đứng sau lưng mình. Rồi mỗi lần như thế lại kéo theo bao nhiêu người vào phía này phía kia dựng cao bảng chính nghĩa mà xâu xé chém giết nhau một cách lãng phí. Con cháu Lê Lợi chu di tam tộc công thần Nguyễn Trãi, Đặng Trần Thường đánh chết Ngô Thời Nhiệm ở ngay Văn Miếu, Minh Mạng trút đòn hằn trên mộ danh tướng Lê Văn Duyệt và những người theo đạo mới...
- Hiện tượng 3: Bỏ cuộc trốn chạy, cố tìm quên cho khuây khỏa niềm đau xót, bi quan nhìn cuộc sống bằng đôi mắt đeo kính đen với những điệu than ai oán, nhiều khi phát điên hay tự tử vì những phi lý tận cùng: người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
QUI TRÌNH TÂM LÝ GIẢI OAN QUA NÉT VĂN HÓA VIỆT
Người mình xem ra có một lối sống gan lì ít bị điên mặc dù trải qua muôn vàn khổ nạn, vì mang sẵn chất máu dung hóa rất bén nhạy trước mọi nghịch cảnh. Gió rung cây thì lá rụng. Gió thổi rì rào và lá rụng mùa thu đẹp lắm chứ. Nhiều bài thơ đã bật lên từ cảnh thơ mộng này. Nét ẩn mật của tinh thần Việt vẫn là cái nhìn và cái thấy về cuộc đời, gọi là niềm tin, phát khởi từ niềm tin gốc trong truyện thiêng vẽ hình hoa văn giao long trên mình để làm bạn được với giao long dưới nước mà hóa giải được đối nghịch. Chữ văn hóa có thể bởi đó mà ra, là phương cách hóa giải, sống an nhiên giữa mọi nghịch cảnh cuộc đời. Từ con mắt nhìn và thấy này, cô Kiến An, ông Ðào, cô Lan, bé Woody hay anh Hải trong phim Ba Mùa đều có thể thả hoa xuống dòng đời, chuyển chất thơ, phả chất tình, bật chất lửa làm thay đổi cả một đời người.
Nhà tâm lý vào bậc nhất của thời đại là Carl Jung đã vẽ lên qui trình khoa học về tâm lý trị liệu làm cho con người hồi phục vuông tròn toàn mãn. Ông gọi qui trình này là Individuation đi tới được tâm điểm nguồn sống Chân Ngã (centering of the Self) qua những bước: khai trống màn chắn phàm ngã (unveiling the Persona), đối diện với bóng đen (confrontation with the Shadow), dung hóa đối nghịch (relating to the animus/anima).
1. Ðạo Trống: Ðây quả là nét căn bản bén rễ sâu trong tâm hồn Việt. Muốn tròn đầy thì bước đầu tiên là phải khai trống những mạch vít che phủ. Ðây cũng là biểu tượng gốc của mọi truyền thống tâm linh. Người Việt đánh trống để khai mạc một lễ nghi. Sứ điệp căn bản của trống đồng chính là cõi trống này. Cũng như miếng trầu là đầu câu chuyện, sẵn sàng nghiền nát phàm ngã với tham sân si đi thì mới phát sinh dòng tình đỏ thắm trong gặp gỡ thân thương. Nét trống này được gặp thường xuyên nơi những truyện thiêng như truyện Giếng Việt (Việt Tỉnh), truyện thánh Dóng lòng trống như ống tre ống trúc để nhận được tròn đầy sức thiêng từ Trời, để có thể mọc cánh bay lên. Vì thế mà trong lễ hội thánh Dóng có nghi thức rước lá trầu không. Tôi đã có dịp về tận đền Phù Đổng và học hỏi dân địa phương về tục rước trầu trong ngày lễ hội. Giáo sư Kim Ðịnh đã khai triển khá tỉ mỉ về những khía cạnh này trong Sứ Ðiệp Trống Ðồng và Kinh Hùng Khải Triết.
2. Ðối Diện với Bóng Ðen: Khoa tâm lý ngày nay cho thấy rằng càng trốn chạy hay dồn nén những điều trái nghịch thì càng thành động lực hành hạ bên trong, rồi phóng rọi bóng đen đó ra chung quanh một cách vô thức thành những hiện tượng như tâm bệnh, do mặc cảm. Vì thế mà người Do Thái có truyền thống bắt con cái phải kể lại những cơn ác mộng ban đêm chứ không được quên đi. Ðiều này phù hợp với truyện thiêng về tục vẽ mình (hoa văn) thành như thuồng luồng để khỏi bị tác hại khi xuống nước. Từ "văn hóa" có thể bởi đó mà ra.
3. Dung Hóa được Ðối Nghịch: Chấp nhận và thấy được nét tích cực nơi những gì vốn tác hại mình, như tâm tình của ca dao “đố ai quét sạch lá rừng” được diễn tả sâu sắc trong phim Ba Mùa, như nối kết cực âm với cực dương thành điện lực, như hòa mọi bổng trầm hay những điệu đục khàn của cuộc sống thành hòa khúc dịu êm. Ðó chính là đạo Trời. Ðây cũng là truyện Thôi Vỹ trong bộ kinh Lĩnh Nam với biết bao gian truân khổ nạn nhưng vẫn giữ vững niềm tin tưởng vào lòng thương người mà đạt ngọc Long Toại.
Người Việt nhìn lại những cơ cực khổ nạn suốt bao thế kỷ trong dòng lịch sử mà vẫn nâng niu vỗ về, như tâm tình của Nguyễn Thùy và Trần Minh Xuân trong Thay Lời Ngỏ của Tinh Thần Việt Nam:
Hỡi lịch sử ta thương mình quá đỗi
Ta thương mình vì bởi nỗi ta đau.
NGỒI BUỒN ĐỐT MỘT ĐỐNG RƠM
Khoa Tâm Lý Trị Liệu sau nhiều nghiên cứu mới khám phá ra được tiến trình chữa trị, mà bước đầu tiên là phải đối diện với nỗi đau và cho bộc lộ lên được chứ không chôn vùi. Vì nếu càng tìm cách trốn chạy hay vùi lấp thì nó càng trở thành động lực bên trong hành hạ và phóng chiếu (project) ra thành những con ma đen ghê sợ: Biết than cùng Trời, biết thở cùng ai! Bài dân ca mộc mạc của người mình không ngờ lại nói lên được tiến trình này.
Ngồi buồn đốt một đống rơm
Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào
Khói bay tới tận thiên tào
Ngọc Hoàng phán hỏi thằng nào đốt rơm?
Niềm đau và nỗi oan được trút ra thành một đống rơm cho cháy đi bốc khói chẳng thơm tho chút nào. Nhưng khi khói bay cao làm cay mắt ông Trời thì ông liền quát hỏi: thằng nào đốt rơm? Bài dân ca dễ thương và hay quá! Ngọc Hoàng là Ông Trời ở đây không còn cao xa mãi cõi mông lung trên kia, mà đã trở thành rất người, rất gần gũi. Ngài cũng bị khói đen của những nỗi oan làm cay mắt, biết “quan âm” được niềm xót đau của người đang giãi bày tâm sự. Vậy mà Ngài còn hỏi “thằng nào đốt rơm?” Hỏi để mà cho có chuyện chứ Ngài đã biết ai rồi. Người đang than thở giữa trời bỗng nhận ra có Trời biết lắng nghe thông cảm. Ðây mới chính là giây phút giải oan của người mình: Trời nào có phụ ai đâu! Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ!
Như vậy, then chốt của cuộc giải oan hồi phục tinh thần phát khởi từ một Niềm Tin ăn sâu trong mạch máu dân mình. Bài học phục hưng Do Thái vẫn là một khuôn mẫu để đời, đặc biệt vì mang thân mệnh rất giống Việt Nam. Không hiểu vì một lý do huyền bí nào mà hai nước nhỏ bé ở hai cực tây và đông Châu Á là Do Thái và Việt Nam lại chịu một số mệnh tàn khốc như nhau, và cùng mang một niềm tin căn bản vào ông Trời thật giống nhau. Như vậy là có mang một sử mệnh nào không hay cũng chỉ là một may rủi tình cờ? Người Do Thái tin vào sử mệnh của mình nên đã là nơi phát sinh hai tôn giáo lớn là Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo, và cống hiến được biết bao nhân tài lỗi lạc cho thế giới. Còn người mình có mang một sử mệnh nào cho một nhân loại mới thoát ra khỏi cáí gọng kìm duy vật và duy con vật không?
Vào thời kỳ đi đầy ở đế quốc Babylon vào thế kỷ thứ sáu trước công nguyên, số phận của người Do Thái được diễn tả như một đống xương khô nằm rải rác khắp cánh đồng, hoàn toàn chia rẽ bi thảm và thất vọng. Vậy mà Ezekiel, người cùng bị phát lưu sang Babylon, đã dám tin vào một cuộc kết nạp phục sinh Do Thái.
Giữa những bế tắc như đi vào hầm tối mịt mù, Ezekiel vẫn bật sáng được tia hy vọng vào niềm tin nơi ông Trời vẫn đang dẫn đầu cuộc hành trình của dân tộc ông. Và ông đã thành công khắc sâu được niềm tin này nơi những người đang rã rời thất vọng vì mất hướng.
KHI NGƯỜI DO THÁI TÌM ÐƯỢC TỤ ÐIỂM
Có thật rằng người Tầu, người Nhật, người Do Thái đoàn kết hơn người Việt? Tôi không nghĩ như vậy. Dân Do Thái cũng là tập hợp của nhiều bộ tộc với nhiều khuynh hướng trái ngược nhau, nhất là trong hoàn cảnh ly tán mỗi người một nẻo, mỗi người một giải pháp để sống còn. Vậy mà họ vẫn tạo được sức mạnh chung. Ðâu là bí mật?
Chắc chắn lớp dân Do Thái tản mát đi khắp nơi đã trở nên rã rời chia rẽ như một đống xương khô. Nhưng họ không tốn sức than trách đổ tội hoặc buông xuôi, hay chỉ kêu gọi đoàn kết suông giữa không khí. Càng nhân danh văn hóa, nhân danh chính nghĩa, nhân danh tự hào dân tộc, càng thêm mất tin tưởng, càng thêm chia rẽ, càng thêm bẽ bàng, chỉ vì chưa có căn bản nào làm tụ điểm. Trong cảnh huống này, Ezekiel đã bật lên một viễn kiến từ một niềm tin, và Isaia cùng với ”Nhóm Do Thái Sót Lại” (Remnant of Israel) tạo được một phong trào thể hiện được một kế hoạch thực tiễn. Ðó là phải tìm cho ra tụ điểm tinh thần.
Họ đã gom tất cả các truyện thiêng từ những huyền thoại của dân tộc Do Thái, từ những câu truyện truyền miệng từ đời này sang đời khác, cho đến những lễ nghi tế tự và phong tục, những bài ca dao tục ngữ, những lời răn dạy khôn ngoan, đều được kính cẩn thu lại thành văn bản. Và điều chắc chắn là tất cả những cuốn sách mà ta gọi là Cựu Ước (Old Testament) như văn bản ta có ngày nay, đã chỉ thành hình vào thời kỳ trước và sau thời lưu đầy ở Babylon vào thế kỷ thứ sáu trước công nguyên. Nói cách khác, bộ kinh Do Thái chỉ thành hình do hoàn cảnh đòi hỏi này, dưới con mắt bật sáng của niềm tin, tạo nên một trào lưu phổ biến bằng chương trình giáo dục đại chúng. Vì thế mà họ đã phát động xây những hội đường giống như cái đình làng ở bất cứ nơi nào có người Do Thái sinh sống, để có nơi tụ họp thường xuyên mà học hỏi và thực hành kinh điển ứng dụng cho đời sống.
Lịch sử dân tộc phải có một ý nghĩa và hướng đi chứ không phi lý lãng nhách. Vì họ tin vào ông Trời dẫn đầu và nối kết tất cả lại như những sợi chỉ mầu trong một tấm thảm lớn. Trong nhãn quan này, họ bắt đầu ghi lại truyện tổ tiên từ một gia đình nhỏ bé của quốc tổ Abraham, sống nghề du mục nay đây mai đó suốt từ Ur tới Haran vùng Mesopotamia rồi vòng xuống Ai Cập. Tổ tiên như vậy thì chưa chắc đã có gì đặc sắc so với những dân đương thời, nhưng đối với người Do Thái thì quan trọng lắm. Từ trong cảm nghiệm, họ ”thấy” rõ họ là dân được tuyển chọn để qui tụ với một sứ mạng, có tổ có nguồn đàng hoàng. Và nhiều câu truyện truyền kỳ khác về khởi nguyên dân tộc họ được gom lại, khiến họ càng có một độ rung chung với nhau về nguồn gốc, và tự nhiên hãnh diện về bản sắc của mình. Cũng như đám anh em tản mát bỗng tìm lại được mẹ làm tổ ấm qui tụ gia đình. Quả thực, phép lạ hồi sinh Do Thái đã phát khởi từ một niềm tin, thể hiện thành một bộ kinh tin làm tụ điểm tinh thần.
ĐI TÌM TRỤ ÐỒNG VIỆT TỘC
Người Việt cần tìm ra cách giải được nỗi oan, vượt qua được mặc cảm, hồi phục được tinh thần. Ðể phục hưng, ai cũng nghĩ ngay tới những giải pháp kinh tế, xã hội, những kế hoạch kỹ nghệ, khoa học, đào tạo nhân tài v.v. Ðiều này thật đúng và cần thiết. Nhưng quan trọng trước hết vẫn là chủ đạo, vẫn là nỗ lực tìm ra được tụ điểm tinh thần qua bộ Kinh Tin Việt Tộc.
Rất may, Việt tộc cũng có cả một truyền thống kho tàng truyện thiêng truyền miệng qua bao thời, với lòng tôn kính Tứ Bất Tử qua các lễ hội, và một kho tàng vô giá ca dao tục ngữ như hơi thở của linh hồn Việt tộc. Bao giờ mình mới xác tín được tầm mức rất ư then chốt này để cùng xây dựng một bộ kinh tin làm trụ đồng mang uy lực qui tụ?
Đúng vậy. “Mất bộ truyện thiêng là mất mạch nối vào nguồn tổ tiên, và không còn căn bản gì cho việc hình thành tiền đồ dân tộc. Dân tộc đó quả thực coi như đã mất.” (Wallace Cliff, Jung and Christianity, Crossroad, trang 60)
Lm. Trần Cao Tường, e-mail andytuong@cox.net