Ba cơ quan có quyền thế của Liên Hiệp Quốc đứng ra bảo trợ một tài liệu nhằm kêu gọi Giáo Hội Công Giáo thay đổi giáo huấn của mình về ngừa thai. Tài liệu này được soạn thảo bởi một cựu linh mục Công Giáo tên là John Wijngaards, có trụ sở tại Vương Quốc Thống Nhất (Anh) và được hơn một trăm nhà khoa bảng bất đồng với Giáo Hội Công Giáo ký thự.
Tuyên bố Wijngaards
Tài liệu trên được soạn thảo để chuẩn bị việc kỷ niệm năm thứ 50 ngày công bố Thông Điệp Humanae Vitae của Đức Phaolô VI vào năm 2018. Thông Điệp này nhắc lại giáo huấn truyền thống của Giáo Hội, một giáo huấn dạy rằng ngừa thai là điều sai lạc về luân lý và các cặp vợ chồng Công Giáo không được phép dùng.
Tuyên bố của Wijngaards nhằm chống lại tính bất khả ngộ của giáo huấn Công Giáo về ngừa thai. Tuyên bố này lý luận rằng không thể coi Humanae Vitae là bất khả ngộ vì đây không phải là chân lý mạc khải, nó cũng không giải thích hay bênh vực một chân lý của “mạc khải Kitô Giáo”.
Các học giả này, thuộc các đại học khắp thế giới, lý luận rằng hành vi vợ chồng không nhất thiết mở ra cho việc truyền sinh vì hành vi này có nhiều mục đích khác, trong đó có “khoái cảm, tình yêu, ủi an, mừng vui, và đồng hành”.
Tài liệu kêu gọi một diễn trình mới mẻ và dân chủ trong Giáo Hội trong đó, các “chuyên viên” sẽ khảo sát các vấn đề khác nhau và ấn định xem giáo huấn mới của Công Giáo sẽ phải ra sao. Các chuyên viên này không nhất thiết là người Công Giáo. Các người ký thự hy vọng rằng thứ “mật nghị viện” chuyên viên này cũng được quyền xem xét việc thay đổi giáo huấn của Giáo Hội về thủ dâm, đồng tính luyến ái và thụ thai trong ống nghiệm.
Quan điểm của Liên Hiệp Quốc rất mạnh trong tài liệu này. Nó nhắc nhiều tới Các Mục Tiêu Phát Triền Thiên Niên Kỷ nay đã không còn. Mặt khác, tài liệu này được tài trợ bởi Qũy Dân Số Liên Hiệp Quốc, Cơ Quan Phụ Nữ Liên Hiệp Quốc, và cơ quan AIDS Liên Hiệp Quốc, ngân sách của ba cơ quan này lên tới hơn 1 tỷ đôla mỗi năm.
Các người cổ vũ việc kế hoạch hóa gia đình theo kiểu Liên Hiệp Quốc, một kiểu kế hoạch hóa bao gồm cả việc cưỡng bức phải thiết lập các chương trình kiểm soát sinh đẻ, từ lâu vốn coi Giáo Hội Công Giáo như kẻ thù số một của họ. Họ tin rằng Giáo Hội cản trở việc cả thế giới chấp nhận “các phương thế ngừa thai hiện đại”.
Theo Liên Hiệp Quốc, thế giới hiện đang tắm gội trong thuốc ngừa thai. Chỉ một số ít nơi là không sử dụng chúng mà thôi. Các người vận động của Liên Hiệp Quốc quả quyết rằng phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi bởi điều họ gọi là “nhu cầu không được thỏa mãn” về thuốc ngừa thai hiện đại. Kiểu nói “nhu cầu không được thỏa mãn” là một kiểu nói chính trị, chứ không phải y khoa, có ý nói tới các phụ nữ phản đối việc sử dụng thuốc ngừa thai vì lý do luân lý và tôn giáo, và cả các phụ nữ không dùng chúng vì họ muốn có con.
Điều đáng lưu ý là tài liệu trên không nhắc gì tới các giáo huấn Công Giáo về ngừa thai, các giáo huấn vốn có từ thời Giáo Hội sơ khai, thay vào đó, nó chỉ nhắc tới “lập trường” Công Giáo về ngừa thai như thể đây chỉ là chuyện chính sách.
Người đứng đàng sau tài liệu trên, John Wijngaards, bất đồng với các giáo huấn Công Giáo hầu như suốt đời. Ông rời chức linh mục vì chống lại giáo huấn của Giáo Hội về việc phong chức cho phụ nữ.
Tài liệu trên đã được công bố ngày 20 tháng Chín vừa qua tại Hội Trường Salvation Army ở New York.
Giáo huấn của Giáo Hội về Ngừa Thai
Cũng ngày trên, tại Hoa Thịnh Đốn, hơn 500 học giả đã ra một bản tuyên bố long trọng tái khẳng định giáo huấn truyền thống của Giáo Hội về việc ngừa thai.
Trong một cuộc họp báo tại Đại Học Công Giáo America, các học giả trên đã công bố một bản văn tựa là “Khẳng Định Giáo Huấn của Giáo Hội về Hồng Phúc Tính Dục” nhằm trả lời “Bản Tuyên Bố Wijngaards". Bản văn này quả quyết rằng “Sự ủng hộ của giới học giả đối với giáo huấn của Giáo Hội về hồng phúc tính dục, về hôn nhân và về ngừa thai đã nở rộ trong các thập niên vừa qua. Mặt khác, các viện và chương trình ủng hộ giáo huấn này đã được thiết lập khắp thế giới. Ngay cả một số nhà duy nữ và chương trình thế tục cũng đã bắt đầu thừa nhận các tai hại của ngừa thai” và Tuyên Bố Wijngaards "không cung cấp bất cứ điều gì mới cho các cuộc thảo luận về luân lý tính của việc ngừa thai”.
Tuyên bố Wijngaards cho rằng Humanae Vitae, tức thông điệp chống ngừa thai năm 1968 của Chân Phúc Giáo Hoàng Phaolô VI, nay đã được chứng minh là không thỏa đáng. Các tác giả của “Khẳng Định” đã nhất quyết không đồng ý như vậy.
John Grabowski, một giáo sư thần học của Đại Học Công Giáo từng làm chuyên viên tại Thượng Hội Đồng về Gia Đình năm 2015, cho rằng: “bất hạnh một điều, Tuyên Bố Wijngaards đã không chịu thừa nhận sự xác minh cho Chân Phúc Phaolô VI trong hơn 48 năm qua của khoa học, của khoa xã hội học, và sự khai triển thêm về nó bởi giáo huấn của Thánh Gioan Phaolô II và sự hỗ trợ nó của Đức Giáo Hoàng Phanxicô”.
Mary Rice Hasson nhận định thêm: “Tuyên bố Wijngaards là thứ tin tức cũ mèm, với các luận điểm tái chế biến vốn vô giá trị năm 1968 và hiện vẫn vô giá trị. Hiện nay, đang có sự hoạt động hết sức tích cực và hào hứng nơi phụ nữ Công Giáo, nhất là các phụ nữ trẻ, đối với nền đạo đức học tính dục biết kính trọng họ là ai, và đối với các phương pháp kế hoạch hóa gia đình, như các phương pháp dựa vào sự hiểu biết khả năng sinh sản, vốn là các phương pháp có lợi cho sức khỏe, cho mối liên hệ và cho đức tin của họ”.
Các nhân vật nổi tiếng sau đây đã ký vào Bản Khẳng Định:
• Janet Smith, giáo sư thần học luân lý tại Đại Chủng Viện Thánh Tâm ở Detroit;
• John Garvey, chủ tịch Đại Học Công Giáo America;
• John Haas, chủ tịch Trung Tâm Đạo Đức Sinh Học Toàn Quốc;
• J. Budziszewski, giáo sư triết học tại Đại Học Texas ở Austin;
• Cha Wojciech Giertych, OP, thần học gia của Phủ Giáo Hoàng;
• Traci Rowland, khoa trưởng Viện Gioan Phaolô II ở Melbourne, Úc Châu;
• George Weigel, tiểu sử gia của Thánh Gioan Phaolô II;
• Michael Novak, giáo sư thỉnh giảng tại Đại Học Công Giáo America và người lãnh giải Templeton.
• John S. Grabowski, PhD, Giáo Sư và Giám Đốc Thần Học Luân Lý/Đạo Đức, Đại Học Công Giáo America; tác giả Sex and Virtue: An Introduction to Sexual Ethics
• Mary Rice Hasson, JD, giám đốc Nghị Hội Phụ Nữ Công Giáo, Trung Tâm Đạo Đức và Chính Sách Công, chủ biên Catholic Women Reflect on Feminism, Complementarity, and the Church
• Helen M. Alvare, JD, giáo sư Luật tại Đại Học George Mason, chủ biên: Breaking Through: Catholic Women Speak for Themselves
• Richard J. Fehring, PhD, RN, FAAN, giáo sư và giám đốc hưu trí, Viện Kế Hoạch Hóa Gia Đình Tự Nhiên của Đại Học Marquette…
Nguyên văn Bản Khẳng Định của hơn 500 học giả Công Giáo
Chúng tôi, các học giả ký tên dưới đây, khẳng định rằng các giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo về hồng phúc tính dục, về hôn nhân, và về việc ngừa thai là chân thật và có thể bảo vệ được trên nhiều cơ sở, trong đó, có các sự thật của lý trí và của mạc khải liên quan đến phẩm giá nhân vị.
Sự ủng hộ của giới học giả đối với giáo huấn của Giáo Hội về hồng phúc tính dục, về hôn nhân và về ngừa thai đã nở rộ trong các thập niên vừa qua. Mặt khác, các viện và chương trình ủng hộ giáo huấn này đã được thiết lập khắp thế giới. Ngay cả một số nhà duy nữ và chương trình thế tục cũng đã bắt đầu thừa nhận các tai hại của ngừa thai.
Tuy nhiên, các sự kiện trên xem ra đã không có được sự chú ý của các tác giả tài liệu “Về Đạo Đức Học của Việc Sử Dụng Các Phương Tiện Ngừa Thai” (từ đây, được gọi là Tuyên Bố Wijngaards), một tài liệu thúc giục Giáo Hội Công Giáo thay đổi giáo huấn của mình và công bố một “văn kiện huấn quyền chính thức (nhằm) rút lại lệnh cấm tuyệt đối về việc sử dụng các phương tiện ngừa thai ‘nhân tạo’, và cho phép việc sử dụng các phương tiện ngừa thai hiện đại không có tính phá thai vì các mục đích phòng bệnh và kế hoạch hóa gia đình”. Bất hạnh một điều là: Tuyên Bố Wijngaards không cung cấp được điều gì mới mẻ cho các cuộc thảo luận về luân lý tính của việc ngừa thai và, trên thực tế, chỉ nhắc lại các luận điểm mà Giáo Hội vốn bác bỏ và nhiều học giả đã bàn thảo và bác bỏ từ năm 1968.
Tuyên bố Wijngaards đã trình bầy một cách sai lầm nghiêm trọng chủ trương chân chính của Giáo Hội Công Giáo. Trong số các chủ trương sai lầm hơn cả của Tuyên Bố Wijngaards là: cả Sách Thánh lẫn luật tự nhiên không hề hỗ trợ cho giáo huấn của Giáo Hội, một giáo huấn dạy rằng ngừa thai không bao giờ tương hợp với kế hoạch của Thiên Chúa dành cho tính dục và hôn nhân. Trong nửa thế kỷ qua, đã có một số lượng rất lớn các suy tư sáng tạo của giới học giả liên quan đến giáo huấn của Giáo Hội về ngừa thai, trong đó có các suy tư sâu sắc về Thần Học Thân Xác, chủ nghĩa nhân vị, và luật tự nhiên. Thêm vào đó, còn có việc tìm tòi và phân tích sâu rộng các tác dụng tiêu cực của việc ngừa thai đối với các cá nhân, các mối liên hệ, và văn hóa.
Tuyên Bố Wijngaards, thay vì vận dụng nền học giả mới đây để ủng hộ giáo huấn của Giáo Hội, đã sai lầm hướng dẫn cuộc thảo luận ngay từ đầu bằng cách cho rằng luận điểm chống ngừa thai trong Humanae Vitae chủ yếu dựa
trên “các định luật sinh học”. Nhưng thực ra, Humanae Vitae tập chú vào mối liên hệ của con người đối với Thiên Chúa và các nhân vị khác, như nó vốn nên làm.
Các điểm dưới đây vắn tắt phác họa căn bản chân thật của giáo huấn Giáo Hội, một giáo huấn dạy rằng ngừa thai không phù hợp với kế hoạch Thiên Chúa dành cho tính dục và hôn nhân. Nó cũng trả lời một số chủ trương sai lầm trong Tuyên Bố Wijngaards.
1. Thiên Chúa là tình yêu
Thiên Chúa, Đấng đã tạo nên thế giới đẹp đẽ và có trật tự này là một Tiên Chúa yêu thương và tốt lành. Trọn bộ sáng thế của Người là một quà phúc đầy yêu thương cho nhân loại. Ngay cả sau cuộc Sa Ngã, Thiên Chúa vẫn tiếp tục vươn tay ra nắm lấy dân của Người, từ từ tự mạc khải Người và độ thẳm sâu trong tình yêu và lòng thương xót của Người cho họ thấy. Việc Chúa Cha ban Con Một của Người là Chúa Giêsu, Đấng đã hiến mạng sống của mình trên Thập Giá, là một sự tự hiến tối hậu và trọn vẹn nhất. Tình yêu vĩ đại và triệt để này đã được thuật lại trong Sách Thánh, trong đó, các soạn giả thánh kinh trong Cựu Ước thường nói về Thiên Chúa dưới hình ảnh người chồng và về dân của Người dưới hình ảnh người vợ của Người, và trong Tân Ước, các ngài diễn tả Chúa Kitô như chú rể còn Giáo Hội như nàng dâu của Người. Suốt trong lịch sử Giáo Hội, nhiều người vẫn coi hình ảnh vợ chồng này như chìa khóa để hiểu mối liên hệ của Thiên Chúa với mọi linh hồn con người.
2. Được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa
Vì Thiên Chúa là tình yêu, tức sự hiệp thông giữa các Ngôi Thiên Chúa, nên Người đã tạo dựng người đàn ông và người đàn bà theo hình ảnh của Người: nghĩa là có khả năng lý luận và chọn lựa tự do, có khả năng yêu thương và sống trong các mối liên hệ yêu thương.
3. Tự hiến
Thiên Chúa mời gọi mọi người chia sẻ tình yêu của Người. Do đó, ai cũng được Thiên Chúa yêu thương và được Người dựng nên để sống trong các mối liên hệ yêu thương; mọi người đều đã được dựng nên để hiến mình cho Thiên Chúa và người khác. Tự hiến có nghĩa là sống một cách khiến có thể cổ vũ thiện ích của mọi người, nhất là những người ta có mối liên hệ gần gũi.
4. Hôn nhân: một hiệp thông độc đáo các ngôi vị
Hôn nhân được Thiên Chúa đặt kế sách giúp một người đàn ông và một người đàn bà có thể sống thực bản sắc cốt lõi của nhân tính như những kẻ yêu nhau và hiến tặng sự sống, giúp hai người trở nên “một thân xác” (St 2:24) và giúp một thân xác này “trổ sinh hoa trái, tăng bội và tràn đầy mặt đất” (St 1:28). Các liên hệ tính dục nhân bản chỉ hoàn thành ý hướng của Thiên Chúa khi chúng tôn trọng ý nghĩa sinh sản của hành vi tính dục và bao hàm việc hiến mình hoàn toàn giữa đôi bạn kết hôn.
5. Luật Thiên Chúa, không phải luật con người
“Tín lý mà Huấn Quyền Giáo Hội thường giải thích là như thế này: có một nối kết không thể bẻ gẫy giữa ý nghĩa kết hợp và ý nghĩa sinh sản [trong hành vi vợ chồng], và cả hai đều nội tại trong hành vi vợ chồng. Sự nối kết này được Thiên Chúa thiết lập và các hữu thể nhân bản không được phép bẻ gẫy bằng ý muốn riêng của họ” (HV 12). Giáo huấn dạy rằng ngừa thai luôn chống lại kế hoạch của Thiên Chúa dành cho tính dục, cho hôn nhân và cho hạnh phúc không đặt căn bản trên luật con người: “Giáo huấn của Giáo Hội về việc cách quãng con cái cách thích đáng là một công bố của chính luật Thiên Chúa” (HV 20).
6. Đức tin và lý trí
Thiên Chúa đã mạc khải các sự thật về tính dục cho con người xuyên qua viễn kiến của Sách Thánh về nhân vị và cũng làm cho lý trí ta nắm được viễn kiến này. Một số phát biểu rất hợp luận lý về việc bảo vệ “luật tự nhiên” đã hỗ trợ giáo huấn của Giáo Hội, tức giáo huấn cho rằng ngừa thai không phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa dành cho tính dục và hôn nhân. Mỗi lối phát biểu ấy bắt đầu bằng các sự thật căn bản khác nhau và do đó, đã xây dựng các luận điểm của mình cách khác nhau.
7. Thần Học Thân Xác: Sự Đóng Góp của Thánh Gioan Phaolô II
Cuốn “Man and Woman He Created Them: A Theology of the Body” của Thánh Gioan Phaolô II, một cuốn sách mà Tuyên Bố Wijngaards hầu như phớt lờ, đã mạnh mẽ bênh vực quan điểm cho rằng ngừa thai không phù hợp với cái hiểu về nhân vị như đã được Sách Thánh và Thánh Truyền Công Giáo truyền thụ. Ngài nói tới “ngôn ngữ thân xác” và chứng minh rằng vi phạm ý nghĩa sinh sản của hành vi vợ chồng cũng vi phạm ý nghĩa kết hợp (nói lên cam kết) của hành vi này. Ở đấy, ngài cũng chứng minh rằng thân xác chúng ta có một ngôn ngữ và một “ý nghĩa phu thê”, thân xác này phát biểu sự thật này: chúng ta hiện hữu trong các liên hệ yêu thương và sinh hoa trái với người khác.
8. Humanae Vitae có tính tiên tri
Humanae Vitae lên tiếng chống lại quan điểm bóp méo về tính dục con người và các liên hệ thân mật mà nhiều người trong thế giới hiện đại đang quảng bá. Humanae Vitae đầy tính tiên tri khi liệt kê một số tai hại có thể phát sinh từ việc sử dụng rộng rãi việc ngừa thai. Rất nhiều cuộc nghiên cứu đã chứng minh rằng ngừa thai, như các phương tiện ngừa thai dùng hoóc môn và các dụng cụ đặt bên trong tử cung, có thể gây nên nhiều vấn đề trầm trọng cho sức khỏe phụ nữ. Việc sử dụng rộng rãi các phương tiện ngừa thai đã góp phần rất lớn vào việc gia tăng việc làm tình ở bên ngoài hôn nhân, gia tăng các vụ thai nghén ở bên ngoài hôn nhân, phá thai, cha mẹ đơn lẻ, sống chung, ly dị, nghèo khổ, bóc lột phụ nữ, giảm tỷ lệ hôn nhân cũng như giảm việc tăng dân số tại nhiều nơi trên thế giới. Ngoài ra, việc làm hại đến môi trường bởi các phương tiện ngừa thai hóa học cũng đang càng ngày càng có nhiều chứng cớ hơn.
9. Một trợ giúp thực tế cho các cặp vợ chồng: Các phương pháp kế hoạch hóa gia đình dựa trên việc hiểu biết chu kỳ sinh sản
Để có thể sống thực kế sách của Thiên Chúa dành cho tình yêu vợ chồng, chồng và vợ cần đến các phương pháp kế hoạch hóa gia đình hợp luân lý. Các Phương Pháp Kế Hoạch Hóa Gia Đình Dựa Trên Việc Hiểu Biết Khả Năng Có Thai (Fertility Awareness Based Methods of Family Planning, viết tắt là FABMs, tức các hình thức Kế Hoạch Hóa Gia Đình Cách Tự Nhiên) tôn trọng việc kết hợp vợ chồng và tiềm năng sinh sản. FABMs hoàn toàn nhất quán với giáo huấn của Giáo Hội về sự trong sạch vợ chồng. Các cặp vợ chồng sử dụng các phương pháp này không hề mưu toan làm hỏng khả năng của các hành vi phu thê trong việc chúng có thể dẫn đến việc hạ sinh những con người mới. Các phương pháp này tôn trọng kế sách của Thiên Chúa dành cho tính dục; chúng giúp các cá nhân lớn mạnh trong việc tự làm chủ lấy mình; chúng có tiềm năng củng cố hôn nhân và tôn trọng sức khỏe thể lý và tâm lý của phụ nữ. Hơn nữa, khoa học còn chứng minh rằng chúng rất hữu hiệu cả trong việc giúp các cặp vợ chồng giới hạn cỡ của gia đình họ khi cần thiết lẫn trong việc họ có thai khi thích hợp.
10. Tôn trọng các giá trị văn hóa, tôn trọng tự do
Các tổ chức quốc tế và các chính phủ nên tôn trọng các giá trị và niềm tin của các gia đình và các nền văn hóa muốn coi con cái như một hồng phúc, và, do đó, không nên áp đặt, lên các cá nhân, các gia đình, hay các nền văn hóa, các thực hành phản đạo đức đối với các giá trị và các niềm tin của họ về con cái và kế hoạch hóa gia đình. Các chính phủ và các tổ chức quốc tế nên biến việc giáo dục về FABMs hay về kế hoạch hóa gia đình thành một ưu tiên. FABMs dựa trên cái hiểu khoa học vững chắc về chu kỳ có thể sinh sản của phụ nữ, rất dễ học đối với các phụ nữ tại các nước đang mở mang, gần như không phải chịu phí tổn nào, mà lại cổ vũ được việc tôn trọng phụ nữ.
11. Chúa Kitô ban ơn thánh
Vì tội nguyên tổ, người đàn ông và người đàn bà phải chịu nhiều cơn cám dỗ mà đôi lúc xem ra như không thể vượt qua được. Chúa Kitô xuống thế không phải chỉ để phục hồi sự tốt lành nguyên thùy của chúng ta mà còn giúp ta có khả năng đạt được sự thánh thiện. Giáo Hội Công Giáo mời gọi các cặp vợ chồng tham sự vào sự sống của Chúa Kitô, tham dự các bí tích, nhất là Bí Tích Hòa Giải và Bí Tích Thánh Thể. Giáo Hội yêu cầu tín hữu thâm hậu hóa mối liên hệ của họ với Thiên Chúa Cha, mở lòng ra tiếp nhận sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, và xin Chúa Kitô ban các ơn thánh cần thiết để sống phù hợp với thánh ý Thiên Chúa đối với cuộc sống vợ chồng của họ, dù gặp các sự thật luân lý khó khăn.
Chúng tôi, những người ký tên dưới đây, chủ trương rằng giáo huấn của Giáo Hội về ngừa thai là chân thật và có thể bênh vực được dựa vào Thánh Kinh và lý trí. Chúng tôi chủ trương rằng giáo huấn Công Giáo tôn trọng nhân vị và là đường dẫn tới hạnh phúc.
Tuyên bố Wijngaards
Tài liệu trên được soạn thảo để chuẩn bị việc kỷ niệm năm thứ 50 ngày công bố Thông Điệp Humanae Vitae của Đức Phaolô VI vào năm 2018. Thông Điệp này nhắc lại giáo huấn truyền thống của Giáo Hội, một giáo huấn dạy rằng ngừa thai là điều sai lạc về luân lý và các cặp vợ chồng Công Giáo không được phép dùng.
Tuyên bố của Wijngaards nhằm chống lại tính bất khả ngộ của giáo huấn Công Giáo về ngừa thai. Tuyên bố này lý luận rằng không thể coi Humanae Vitae là bất khả ngộ vì đây không phải là chân lý mạc khải, nó cũng không giải thích hay bênh vực một chân lý của “mạc khải Kitô Giáo”.
Các học giả này, thuộc các đại học khắp thế giới, lý luận rằng hành vi vợ chồng không nhất thiết mở ra cho việc truyền sinh vì hành vi này có nhiều mục đích khác, trong đó có “khoái cảm, tình yêu, ủi an, mừng vui, và đồng hành”.
Tài liệu kêu gọi một diễn trình mới mẻ và dân chủ trong Giáo Hội trong đó, các “chuyên viên” sẽ khảo sát các vấn đề khác nhau và ấn định xem giáo huấn mới của Công Giáo sẽ phải ra sao. Các chuyên viên này không nhất thiết là người Công Giáo. Các người ký thự hy vọng rằng thứ “mật nghị viện” chuyên viên này cũng được quyền xem xét việc thay đổi giáo huấn của Giáo Hội về thủ dâm, đồng tính luyến ái và thụ thai trong ống nghiệm.
Quan điểm của Liên Hiệp Quốc rất mạnh trong tài liệu này. Nó nhắc nhiều tới Các Mục Tiêu Phát Triền Thiên Niên Kỷ nay đã không còn. Mặt khác, tài liệu này được tài trợ bởi Qũy Dân Số Liên Hiệp Quốc, Cơ Quan Phụ Nữ Liên Hiệp Quốc, và cơ quan AIDS Liên Hiệp Quốc, ngân sách của ba cơ quan này lên tới hơn 1 tỷ đôla mỗi năm.
Các người cổ vũ việc kế hoạch hóa gia đình theo kiểu Liên Hiệp Quốc, một kiểu kế hoạch hóa bao gồm cả việc cưỡng bức phải thiết lập các chương trình kiểm soát sinh đẻ, từ lâu vốn coi Giáo Hội Công Giáo như kẻ thù số một của họ. Họ tin rằng Giáo Hội cản trở việc cả thế giới chấp nhận “các phương thế ngừa thai hiện đại”.
Theo Liên Hiệp Quốc, thế giới hiện đang tắm gội trong thuốc ngừa thai. Chỉ một số ít nơi là không sử dụng chúng mà thôi. Các người vận động của Liên Hiệp Quốc quả quyết rằng phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi bởi điều họ gọi là “nhu cầu không được thỏa mãn” về thuốc ngừa thai hiện đại. Kiểu nói “nhu cầu không được thỏa mãn” là một kiểu nói chính trị, chứ không phải y khoa, có ý nói tới các phụ nữ phản đối việc sử dụng thuốc ngừa thai vì lý do luân lý và tôn giáo, và cả các phụ nữ không dùng chúng vì họ muốn có con.
Điều đáng lưu ý là tài liệu trên không nhắc gì tới các giáo huấn Công Giáo về ngừa thai, các giáo huấn vốn có từ thời Giáo Hội sơ khai, thay vào đó, nó chỉ nhắc tới “lập trường” Công Giáo về ngừa thai như thể đây chỉ là chuyện chính sách.
Người đứng đàng sau tài liệu trên, John Wijngaards, bất đồng với các giáo huấn Công Giáo hầu như suốt đời. Ông rời chức linh mục vì chống lại giáo huấn của Giáo Hội về việc phong chức cho phụ nữ.
Tài liệu trên đã được công bố ngày 20 tháng Chín vừa qua tại Hội Trường Salvation Army ở New York.
Giáo huấn của Giáo Hội về Ngừa Thai
Cũng ngày trên, tại Hoa Thịnh Đốn, hơn 500 học giả đã ra một bản tuyên bố long trọng tái khẳng định giáo huấn truyền thống của Giáo Hội về việc ngừa thai.
Trong một cuộc họp báo tại Đại Học Công Giáo America, các học giả trên đã công bố một bản văn tựa là “Khẳng Định Giáo Huấn của Giáo Hội về Hồng Phúc Tính Dục” nhằm trả lời “Bản Tuyên Bố Wijngaards". Bản văn này quả quyết rằng “Sự ủng hộ của giới học giả đối với giáo huấn của Giáo Hội về hồng phúc tính dục, về hôn nhân và về ngừa thai đã nở rộ trong các thập niên vừa qua. Mặt khác, các viện và chương trình ủng hộ giáo huấn này đã được thiết lập khắp thế giới. Ngay cả một số nhà duy nữ và chương trình thế tục cũng đã bắt đầu thừa nhận các tai hại của ngừa thai” và Tuyên Bố Wijngaards "không cung cấp bất cứ điều gì mới cho các cuộc thảo luận về luân lý tính của việc ngừa thai”.
Tuyên bố Wijngaards cho rằng Humanae Vitae, tức thông điệp chống ngừa thai năm 1968 của Chân Phúc Giáo Hoàng Phaolô VI, nay đã được chứng minh là không thỏa đáng. Các tác giả của “Khẳng Định” đã nhất quyết không đồng ý như vậy.
John Grabowski, một giáo sư thần học của Đại Học Công Giáo từng làm chuyên viên tại Thượng Hội Đồng về Gia Đình năm 2015, cho rằng: “bất hạnh một điều, Tuyên Bố Wijngaards đã không chịu thừa nhận sự xác minh cho Chân Phúc Phaolô VI trong hơn 48 năm qua của khoa học, của khoa xã hội học, và sự khai triển thêm về nó bởi giáo huấn của Thánh Gioan Phaolô II và sự hỗ trợ nó của Đức Giáo Hoàng Phanxicô”.
Mary Rice Hasson nhận định thêm: “Tuyên bố Wijngaards là thứ tin tức cũ mèm, với các luận điểm tái chế biến vốn vô giá trị năm 1968 và hiện vẫn vô giá trị. Hiện nay, đang có sự hoạt động hết sức tích cực và hào hứng nơi phụ nữ Công Giáo, nhất là các phụ nữ trẻ, đối với nền đạo đức học tính dục biết kính trọng họ là ai, và đối với các phương pháp kế hoạch hóa gia đình, như các phương pháp dựa vào sự hiểu biết khả năng sinh sản, vốn là các phương pháp có lợi cho sức khỏe, cho mối liên hệ và cho đức tin của họ”.
Các nhân vật nổi tiếng sau đây đã ký vào Bản Khẳng Định:
• Janet Smith, giáo sư thần học luân lý tại Đại Chủng Viện Thánh Tâm ở Detroit;
• John Garvey, chủ tịch Đại Học Công Giáo America;
• John Haas, chủ tịch Trung Tâm Đạo Đức Sinh Học Toàn Quốc;
• J. Budziszewski, giáo sư triết học tại Đại Học Texas ở Austin;
• Cha Wojciech Giertych, OP, thần học gia của Phủ Giáo Hoàng;
• Traci Rowland, khoa trưởng Viện Gioan Phaolô II ở Melbourne, Úc Châu;
• George Weigel, tiểu sử gia của Thánh Gioan Phaolô II;
• Michael Novak, giáo sư thỉnh giảng tại Đại Học Công Giáo America và người lãnh giải Templeton.
• John S. Grabowski, PhD, Giáo Sư và Giám Đốc Thần Học Luân Lý/Đạo Đức, Đại Học Công Giáo America; tác giả Sex and Virtue: An Introduction to Sexual Ethics
• Mary Rice Hasson, JD, giám đốc Nghị Hội Phụ Nữ Công Giáo, Trung Tâm Đạo Đức và Chính Sách Công, chủ biên Catholic Women Reflect on Feminism, Complementarity, and the Church
• Helen M. Alvare, JD, giáo sư Luật tại Đại Học George Mason, chủ biên: Breaking Through: Catholic Women Speak for Themselves
• Richard J. Fehring, PhD, RN, FAAN, giáo sư và giám đốc hưu trí, Viện Kế Hoạch Hóa Gia Đình Tự Nhiên của Đại Học Marquette…
Nguyên văn Bản Khẳng Định của hơn 500 học giả Công Giáo
Chúng tôi, các học giả ký tên dưới đây, khẳng định rằng các giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo về hồng phúc tính dục, về hôn nhân, và về việc ngừa thai là chân thật và có thể bảo vệ được trên nhiều cơ sở, trong đó, có các sự thật của lý trí và của mạc khải liên quan đến phẩm giá nhân vị.
Sự ủng hộ của giới học giả đối với giáo huấn của Giáo Hội về hồng phúc tính dục, về hôn nhân và về ngừa thai đã nở rộ trong các thập niên vừa qua. Mặt khác, các viện và chương trình ủng hộ giáo huấn này đã được thiết lập khắp thế giới. Ngay cả một số nhà duy nữ và chương trình thế tục cũng đã bắt đầu thừa nhận các tai hại của ngừa thai.
Tuy nhiên, các sự kiện trên xem ra đã không có được sự chú ý của các tác giả tài liệu “Về Đạo Đức Học của Việc Sử Dụng Các Phương Tiện Ngừa Thai” (từ đây, được gọi là Tuyên Bố Wijngaards), một tài liệu thúc giục Giáo Hội Công Giáo thay đổi giáo huấn của mình và công bố một “văn kiện huấn quyền chính thức (nhằm) rút lại lệnh cấm tuyệt đối về việc sử dụng các phương tiện ngừa thai ‘nhân tạo’, và cho phép việc sử dụng các phương tiện ngừa thai hiện đại không có tính phá thai vì các mục đích phòng bệnh và kế hoạch hóa gia đình”. Bất hạnh một điều là: Tuyên Bố Wijngaards không cung cấp được điều gì mới mẻ cho các cuộc thảo luận về luân lý tính của việc ngừa thai và, trên thực tế, chỉ nhắc lại các luận điểm mà Giáo Hội vốn bác bỏ và nhiều học giả đã bàn thảo và bác bỏ từ năm 1968.
Tuyên bố Wijngaards đã trình bầy một cách sai lầm nghiêm trọng chủ trương chân chính của Giáo Hội Công Giáo. Trong số các chủ trương sai lầm hơn cả của Tuyên Bố Wijngaards là: cả Sách Thánh lẫn luật tự nhiên không hề hỗ trợ cho giáo huấn của Giáo Hội, một giáo huấn dạy rằng ngừa thai không bao giờ tương hợp với kế hoạch của Thiên Chúa dành cho tính dục và hôn nhân. Trong nửa thế kỷ qua, đã có một số lượng rất lớn các suy tư sáng tạo của giới học giả liên quan đến giáo huấn của Giáo Hội về ngừa thai, trong đó có các suy tư sâu sắc về Thần Học Thân Xác, chủ nghĩa nhân vị, và luật tự nhiên. Thêm vào đó, còn có việc tìm tòi và phân tích sâu rộng các tác dụng tiêu cực của việc ngừa thai đối với các cá nhân, các mối liên hệ, và văn hóa.
Tuyên Bố Wijngaards, thay vì vận dụng nền học giả mới đây để ủng hộ giáo huấn của Giáo Hội, đã sai lầm hướng dẫn cuộc thảo luận ngay từ đầu bằng cách cho rằng luận điểm chống ngừa thai trong Humanae Vitae chủ yếu dựa
trên “các định luật sinh học”. Nhưng thực ra, Humanae Vitae tập chú vào mối liên hệ của con người đối với Thiên Chúa và các nhân vị khác, như nó vốn nên làm.
Các điểm dưới đây vắn tắt phác họa căn bản chân thật của giáo huấn Giáo Hội, một giáo huấn dạy rằng ngừa thai không phù hợp với kế hoạch Thiên Chúa dành cho tính dục và hôn nhân. Nó cũng trả lời một số chủ trương sai lầm trong Tuyên Bố Wijngaards.
1. Thiên Chúa là tình yêu
Thiên Chúa, Đấng đã tạo nên thế giới đẹp đẽ và có trật tự này là một Tiên Chúa yêu thương và tốt lành. Trọn bộ sáng thế của Người là một quà phúc đầy yêu thương cho nhân loại. Ngay cả sau cuộc Sa Ngã, Thiên Chúa vẫn tiếp tục vươn tay ra nắm lấy dân của Người, từ từ tự mạc khải Người và độ thẳm sâu trong tình yêu và lòng thương xót của Người cho họ thấy. Việc Chúa Cha ban Con Một của Người là Chúa Giêsu, Đấng đã hiến mạng sống của mình trên Thập Giá, là một sự tự hiến tối hậu và trọn vẹn nhất. Tình yêu vĩ đại và triệt để này đã được thuật lại trong Sách Thánh, trong đó, các soạn giả thánh kinh trong Cựu Ước thường nói về Thiên Chúa dưới hình ảnh người chồng và về dân của Người dưới hình ảnh người vợ của Người, và trong Tân Ước, các ngài diễn tả Chúa Kitô như chú rể còn Giáo Hội như nàng dâu của Người. Suốt trong lịch sử Giáo Hội, nhiều người vẫn coi hình ảnh vợ chồng này như chìa khóa để hiểu mối liên hệ của Thiên Chúa với mọi linh hồn con người.
2. Được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa
Vì Thiên Chúa là tình yêu, tức sự hiệp thông giữa các Ngôi Thiên Chúa, nên Người đã tạo dựng người đàn ông và người đàn bà theo hình ảnh của Người: nghĩa là có khả năng lý luận và chọn lựa tự do, có khả năng yêu thương và sống trong các mối liên hệ yêu thương.
3. Tự hiến
Thiên Chúa mời gọi mọi người chia sẻ tình yêu của Người. Do đó, ai cũng được Thiên Chúa yêu thương và được Người dựng nên để sống trong các mối liên hệ yêu thương; mọi người đều đã được dựng nên để hiến mình cho Thiên Chúa và người khác. Tự hiến có nghĩa là sống một cách khiến có thể cổ vũ thiện ích của mọi người, nhất là những người ta có mối liên hệ gần gũi.
4. Hôn nhân: một hiệp thông độc đáo các ngôi vị
Hôn nhân được Thiên Chúa đặt kế sách giúp một người đàn ông và một người đàn bà có thể sống thực bản sắc cốt lõi của nhân tính như những kẻ yêu nhau và hiến tặng sự sống, giúp hai người trở nên “một thân xác” (St 2:24) và giúp một thân xác này “trổ sinh hoa trái, tăng bội và tràn đầy mặt đất” (St 1:28). Các liên hệ tính dục nhân bản chỉ hoàn thành ý hướng của Thiên Chúa khi chúng tôn trọng ý nghĩa sinh sản của hành vi tính dục và bao hàm việc hiến mình hoàn toàn giữa đôi bạn kết hôn.
5. Luật Thiên Chúa, không phải luật con người
“Tín lý mà Huấn Quyền Giáo Hội thường giải thích là như thế này: có một nối kết không thể bẻ gẫy giữa ý nghĩa kết hợp và ý nghĩa sinh sản [trong hành vi vợ chồng], và cả hai đều nội tại trong hành vi vợ chồng. Sự nối kết này được Thiên Chúa thiết lập và các hữu thể nhân bản không được phép bẻ gẫy bằng ý muốn riêng của họ” (HV 12). Giáo huấn dạy rằng ngừa thai luôn chống lại kế hoạch của Thiên Chúa dành cho tính dục, cho hôn nhân và cho hạnh phúc không đặt căn bản trên luật con người: “Giáo huấn của Giáo Hội về việc cách quãng con cái cách thích đáng là một công bố của chính luật Thiên Chúa” (HV 20).
6. Đức tin và lý trí
Thiên Chúa đã mạc khải các sự thật về tính dục cho con người xuyên qua viễn kiến của Sách Thánh về nhân vị và cũng làm cho lý trí ta nắm được viễn kiến này. Một số phát biểu rất hợp luận lý về việc bảo vệ “luật tự nhiên” đã hỗ trợ giáo huấn của Giáo Hội, tức giáo huấn cho rằng ngừa thai không phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa dành cho tính dục và hôn nhân. Mỗi lối phát biểu ấy bắt đầu bằng các sự thật căn bản khác nhau và do đó, đã xây dựng các luận điểm của mình cách khác nhau.
7. Thần Học Thân Xác: Sự Đóng Góp của Thánh Gioan Phaolô II
Cuốn “Man and Woman He Created Them: A Theology of the Body” của Thánh Gioan Phaolô II, một cuốn sách mà Tuyên Bố Wijngaards hầu như phớt lờ, đã mạnh mẽ bênh vực quan điểm cho rằng ngừa thai không phù hợp với cái hiểu về nhân vị như đã được Sách Thánh và Thánh Truyền Công Giáo truyền thụ. Ngài nói tới “ngôn ngữ thân xác” và chứng minh rằng vi phạm ý nghĩa sinh sản của hành vi vợ chồng cũng vi phạm ý nghĩa kết hợp (nói lên cam kết) của hành vi này. Ở đấy, ngài cũng chứng minh rằng thân xác chúng ta có một ngôn ngữ và một “ý nghĩa phu thê”, thân xác này phát biểu sự thật này: chúng ta hiện hữu trong các liên hệ yêu thương và sinh hoa trái với người khác.
8. Humanae Vitae có tính tiên tri
Humanae Vitae lên tiếng chống lại quan điểm bóp méo về tính dục con người và các liên hệ thân mật mà nhiều người trong thế giới hiện đại đang quảng bá. Humanae Vitae đầy tính tiên tri khi liệt kê một số tai hại có thể phát sinh từ việc sử dụng rộng rãi việc ngừa thai. Rất nhiều cuộc nghiên cứu đã chứng minh rằng ngừa thai, như các phương tiện ngừa thai dùng hoóc môn và các dụng cụ đặt bên trong tử cung, có thể gây nên nhiều vấn đề trầm trọng cho sức khỏe phụ nữ. Việc sử dụng rộng rãi các phương tiện ngừa thai đã góp phần rất lớn vào việc gia tăng việc làm tình ở bên ngoài hôn nhân, gia tăng các vụ thai nghén ở bên ngoài hôn nhân, phá thai, cha mẹ đơn lẻ, sống chung, ly dị, nghèo khổ, bóc lột phụ nữ, giảm tỷ lệ hôn nhân cũng như giảm việc tăng dân số tại nhiều nơi trên thế giới. Ngoài ra, việc làm hại đến môi trường bởi các phương tiện ngừa thai hóa học cũng đang càng ngày càng có nhiều chứng cớ hơn.
9. Một trợ giúp thực tế cho các cặp vợ chồng: Các phương pháp kế hoạch hóa gia đình dựa trên việc hiểu biết chu kỳ sinh sản
Để có thể sống thực kế sách của Thiên Chúa dành cho tình yêu vợ chồng, chồng và vợ cần đến các phương pháp kế hoạch hóa gia đình hợp luân lý. Các Phương Pháp Kế Hoạch Hóa Gia Đình Dựa Trên Việc Hiểu Biết Khả Năng Có Thai (Fertility Awareness Based Methods of Family Planning, viết tắt là FABMs, tức các hình thức Kế Hoạch Hóa Gia Đình Cách Tự Nhiên) tôn trọng việc kết hợp vợ chồng và tiềm năng sinh sản. FABMs hoàn toàn nhất quán với giáo huấn của Giáo Hội về sự trong sạch vợ chồng. Các cặp vợ chồng sử dụng các phương pháp này không hề mưu toan làm hỏng khả năng của các hành vi phu thê trong việc chúng có thể dẫn đến việc hạ sinh những con người mới. Các phương pháp này tôn trọng kế sách của Thiên Chúa dành cho tính dục; chúng giúp các cá nhân lớn mạnh trong việc tự làm chủ lấy mình; chúng có tiềm năng củng cố hôn nhân và tôn trọng sức khỏe thể lý và tâm lý của phụ nữ. Hơn nữa, khoa học còn chứng minh rằng chúng rất hữu hiệu cả trong việc giúp các cặp vợ chồng giới hạn cỡ của gia đình họ khi cần thiết lẫn trong việc họ có thai khi thích hợp.
10. Tôn trọng các giá trị văn hóa, tôn trọng tự do
Các tổ chức quốc tế và các chính phủ nên tôn trọng các giá trị và niềm tin của các gia đình và các nền văn hóa muốn coi con cái như một hồng phúc, và, do đó, không nên áp đặt, lên các cá nhân, các gia đình, hay các nền văn hóa, các thực hành phản đạo đức đối với các giá trị và các niềm tin của họ về con cái và kế hoạch hóa gia đình. Các chính phủ và các tổ chức quốc tế nên biến việc giáo dục về FABMs hay về kế hoạch hóa gia đình thành một ưu tiên. FABMs dựa trên cái hiểu khoa học vững chắc về chu kỳ có thể sinh sản của phụ nữ, rất dễ học đối với các phụ nữ tại các nước đang mở mang, gần như không phải chịu phí tổn nào, mà lại cổ vũ được việc tôn trọng phụ nữ.
11. Chúa Kitô ban ơn thánh
Vì tội nguyên tổ, người đàn ông và người đàn bà phải chịu nhiều cơn cám dỗ mà đôi lúc xem ra như không thể vượt qua được. Chúa Kitô xuống thế không phải chỉ để phục hồi sự tốt lành nguyên thùy của chúng ta mà còn giúp ta có khả năng đạt được sự thánh thiện. Giáo Hội Công Giáo mời gọi các cặp vợ chồng tham sự vào sự sống của Chúa Kitô, tham dự các bí tích, nhất là Bí Tích Hòa Giải và Bí Tích Thánh Thể. Giáo Hội yêu cầu tín hữu thâm hậu hóa mối liên hệ của họ với Thiên Chúa Cha, mở lòng ra tiếp nhận sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, và xin Chúa Kitô ban các ơn thánh cần thiết để sống phù hợp với thánh ý Thiên Chúa đối với cuộc sống vợ chồng của họ, dù gặp các sự thật luân lý khó khăn.
Chúng tôi, những người ký tên dưới đây, chủ trương rằng giáo huấn của Giáo Hội về ngừa thai là chân thật và có thể bênh vực được dựa vào Thánh Kinh và lý trí. Chúng tôi chủ trương rằng giáo huấn Công Giáo tôn trọng nhân vị và là đường dẫn tới hạnh phúc.