Cái nóng mùa hè thật khổ, thở hơi nóng tựa khói xe, đêm oi ả. Bầu khí nóng tròn như trái banh khổng lồ vần vũ trên không trung. Trái nóng đó bay hết nơi này đến nơi khác. Đến đâu chúng nhả ra làn khí nóng làm khổ từ con người đến cây cỏ. Nóng làm héo nụ cười nơi con trẻ, sạm da đám choai choai, nhăn mặt người già, cành lá gục đầu, nẫu cánh hoa tươi, lạc giọng chim hót. Giấc ngủ đêm mơ màng, người này trở mình, người kia thở dài, kẻ nọ lấy nước uống, người nữa tay xoa mồ hôi mặt. Hai anh bạn ngủ cạnh gường nhau không thể chợp mắt, đành rủ nhau ra ngồi hành lang hưởng chút lạnh sương đêm. Sương đêm hè nghèo nàn, hạt sương nhỏ như mũi kim, vừa chạm làn da nóng đã khô mất, tan biến trong đêm.

Ngẩng lên thấy trời đêm; cúi xuống đất đen ngòn; ngó dọc, ngó ngang, cây im lặng như chào cờ. Một anh khai mào câu chuyện bài đã học. Từ nguyên thủy, cội nguồn việc Đức Kitô, Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, xuống thế làm người, dường như không nằm trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Nghe hỏi bất thình lình, anh thứ hai không biết nên tán đồng hay phản đối. Anh còn đang ậm ừ cho xong chuyện thì anh thứ nhất tiếp. Trình thuật sách Sáng Thế Kí, hai chương đầu ghi lại lịch trình sáng tạo xảy ra trong sáu ngày, sang ngày thứ bảy Đức Chúa nghỉ bởi việc sáng tạo đã hoàn tất. Tác giả Sáng Thế Kí giải thích, hoặc được mặc khải, công việc cứu chuộc như là việc Đức Chúa chữa trị sai lầm do con người gây ra.

Anh thứ hai giờ mới góp í. Từ nguyên thủy không có bất cứ dấu chỉ nào cho biết sẽ có ngày Ngôi Hai, Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Điều này không xảy ra bởi những gì Đức Chúa sáng tạo đều tuyệt hảo.

Anh thứ nhất tiếp. Vấn đề ở đây là do Đức Chúa ban cho con người quyền tự do, quyết định, chọn lựa. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc chọn bất trung, thất tín. Như thế công trình cứu chuộc của Đức Chúa xảy ra sau khi việc sáng tạo đã hoàn tất. Đúng ra phải nói là sau khi con người phạm tội. Điều làm phát sinh việc Đấng Cứu thế xuống thế chính là tội của con người, lạm dụng quyền tự do, bất tuân lời Đức Chúa. Tổ phụ nhân loại là hai ông bà Adong-Eva đã phạm tội, trái lệnh truyền Đức Chúa. Hai ông bà nghe phủ dụ đường mật của ma quỉ, không vâng phục Đức Chúa.
Anh thứ hai tiếp, tai hại hơn nữa, cả hai không thống hối, nhận tội. Trái lại đổ thừa cho nhau. Ông đổ cho bà, bà đổ cho ma quỉ. Họ phạm tội, mở đường cho tội vào thế gian và hậu quả của tội là đau khổ và sự chết.

Anh thứ nhất án đồng với anh thứ hai. Đúng thế, Thiên Chúa tra hỏi ông Adong về tội không vâng lời. Ông không nhận tội nhưng đổ thừa cho Eva. Thiên Chúa hỏi Evà, bà đổ thừa cho ma quỉ, núp bóng hình con rắn. Bản án được đưa ra. Đức Chúa phán: Con rắn gây tội chúng phải bò bằng bụng, ăn đất. Về phía người phụ nữ, khi sanh con sẽ chịu nhiều đau khổ. Về phần ông, phải bới đất, vạch cỏ tìm miếng ăn, sinh sống. Với đất đai, chúng trở nên khô cằn, cây nảy gai, cỏ dại lan tràn.
Anh thứ hai tiếp theo. Từ đó chúng ta có thể nói, trước khi con người phạm tội, con người có cuộc sống thật thảnh thơi. Đời thanh thản, không bon chen, không gian tham, không tranh giành, không cướp bóc, không giết chết lẫn nhau, không kẻ trên người dưới, không ai là chủ, chẳng ai là đầy tớ, tôi bộc. Anh thứ nhất tiếp: Trước khi phạm tội, con người không phải đau đớn, không khổ cực, không bệnh tật, có lẽ cũng chẳng già đi, cứ sống theo thời gian, cũng không bị thần chết tác oai, tác quái. Tội lỗi và thần chết vào thế gian hành hạ mọi người, già trẻ, lớn bé tất cả đều là tội nhân.

Anh thứ hai. Đó là cách luận giải về đau khổ, chết chóc, tác giả sách Sáng Thế Kí. Anh nói tiếp. Đức Chúa với tình thương bao la, Ngài không để mặc con người chết trong tội lỗi. Đức Chúa sai Ngôi Hai xuống thế làm công việc cứu chuộc nhân loại. Nguồn gốc việc Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế khởi sự từ đó. Thành công trong việc phủ dụ con người cộng tác; ma quỉ dương dương, tự đắc coi mình chiến thắng, làm chủ con người muôn đời. Ma quỉ không thể dự trù có ngày chúng bị huỷ diệt, bị đẩy vào ngục tối. Ngôi hai xuống thế làm người, nhận thân phận con người, phá tan xiềng xích tội ma quỉ khoá buộc vào cổ con người.

Anh thứ nhất tiếp. Đức Chúa không cần phải xuống thế vẫn có thể phá tan xiềng xích tội lỗi. Tuy nhiên Ngài chọn xuống thế làm thân phận con người, đứng về phía con người để phá tan mưu ma, chước quỉ và dồn chúng vào ngục tối. Thông thường người ta chọn người tài nhất, giỏi nhất, mạnh nhất ra đối đầu với kẻ thù. Đức Chúa lại không làm như thế, chọn người phụ nữ đứng ra đối đầu với ma quỉ. Anh thứ hai phản đối. Về điểm này tôi không đồng í với anh. Đức Chúa chọn Đức Trinh Nữ Maria, người mạnh nhất ra đối đầu với ma quỉ đó chứ. Tôi không hiểu. Anh thấy Đức Trinh Nữ mạnh ở điểm nào. Tuỳ theo cách nhìn của mỗi người. Người ta thường coi mạnh, yếu bằng cách dựa vào sức mạnh thân xác. Đức Chúa xác định mạnh yếu dựa vào tâm linh. Về phương diện tâm linh Đức Trinh Nữ Maria là Đấng hết mực khiêm nhường. Đức Chúa chọn đấng hết mực khiêm nhường chống lại kẻ kiêu căng. Dùng khiêm nhu chống cường bạo. Dùng yếu thắng mạnh. Dùng mềm chống sắt đá. Dùng ôn hoà chống bạo lực. Dùng vâng lời chống bất tuân. Anh thấy đường lối Đức Chúa đi vượt khỏi mọi tiên đoán thông thường của trí óc con người. Xem cách Đức Chúa thực hiện mới thấy quyền lực, sức mạnh con người không là gì. Vua Herode với quyền bính trong tay, có quân, có lính, có quyền, có tiền, có chức, có tước, hùng mạnh đến thế mà lại sợ một em bé sơ sinh trong máng cỏ. Làm sao ông Giuse có thể dùng búa kìm, cưa đục chống lại quân hùng, tướng mạnh của Herode. Thế mà Herod mất ăn, mất ngủ, điên khùng, giết hết bé trai trong nước ông cai trị. Dẫu thế vẫn thua mưu trí của anh thợ mộc Giuse. Xem thế, có chức, có quyền luôn sống bất an, đêm ngày lo sợ có ngày quyền chức rũ áo ra đi.

Bởi Đức Kitô xuống thế nhận thân phận con người nên ma quỉ lợi dụng tính kiêu căng, tự cao, tự đại của con người, thay mặt ma quỉ làm công việc xua đuổi Ngôi Hai. Ma quỉ biết Đức Chúa yêu thương con người nên chúng dùng hết mọi hình thức mua chuộc con người phục vụ chúng. Chúng nằm sau lưng giật giây cho con người thực hiện.

Anh thứ hai hỏi. Anh nói thế có nghĩa là con người trở thành con rối trong tay ma quỉ sao? Có lẽ đó là hình ảnh trung thực nhất. Tất nhiên không phải ai cũng là con rối trong tay chúng, nhưng cũng rất khó thoát khỏi cái hình ảnh con rối ma quỉ lợi dụng. Khác biệt ở chỗ là kẻ nhiều người ít mà thôi.

Kinh Thánh ghi lại chỉ một đôi lần ma quỉ trực tiếp đối diện Đức Kitô, còn hầu hết các trường hợp khác chúng đều đứng đằng xa giật giây. Lần đầu tiên ma quỉ trực tiếp đối diện cám dỗ Đức Kitô, sau khi Ngài nhịn đói trong hoang địa. Bị thua thảm hại, chúng hứa sẽ trở lại. Chúng trở lại bằng cách dụ dỗ kẻ tự nhận mình công chính, tự nhận mình ngay lành thách thức và gài bẫy mong hạ nhục Ngôi Hai. Thua từ cãi lí đến gài bẫy, ma quỉ vẫn không lui bước. Chúng dùng người có thế, có lực, có quyền, có binh, có lính, có con ăn, đầy tớ, có kẻ sai, người bảo, dùng tiền mua chuộc, đặt điều vu vạ, cáo gian và cuối cùng bắt Ngôi Hai hành hình trên thập tự. Giết chết Đức Kitô, chúng được gì? Thưa ba ngày yên ổn, sau đó nhóm lãnh đạo ngày đêm lo sợ, bởi tin Đức Kitô sống lại từ cõi chết lan nhanh hơn lửa cháy. Chúng mang quân đi dẹp nhưng càng dẹp tin Đức Kitô sống lại càng lan nhanh, lan mạnh và lan xa. Phaolo người chúng sai di dẹp lửa Kitô, chính ông bị cuốn vào đám lửa đó. Lửa Kitô biến ông thành con người mới, nửa đời còn lại làm nhân chứng đức Kitô sống lại từ cõi chết.

Ma quỉ dùng bàn tay con người, sai khiến làm việc cho chúng bằng cách khai thác lòng tham, ham danh, ham lợi làm điều bất chính. Bởi bản tính ma quỷ là gian manh, lừa đảo. Vì là bản tính nên ma quỉ không thể từ bỏ cám dỗ. Từ bỏ cám dỗ đồng nghĩa với đánh mất bản tính. Mất bản tính là chấp nhận sự thật. Ma quỷ không có khả năng nhận sự thật bởi đó là bản tính của chúng. Chúng gian giảo nên dùng con người thay chúng chối bỏ Đức Chúa hiện hữu. Những kẻ tự kiêu tin theo, vào hùa, kết bè, kéo đảng, lớn tiếng, tuyên truyền không có Đức Chúa. Nhẹ dạ hơn cho là có Đức Chúa nhưng Ngài đã chết. Vũ trụ này do Đức Chúa tạo thành, nếu Ngài chết làm sao vũ trụ này đứng vững.

Anh thứ hai tiếp lời. Ai đi theo đường lối của Đức Chúa, vâng lời trở thành dân riêng Chúa. Dân riêng nhận đặc ân, không chết, không đau thương, không vất vả bới đất, nhặt cỏ kiếm sống. Sống thảnh thơi trong tình yêu Chúa, sống trạng thái nguyên thuỷ lúc Đức Chúa tạo thành con người.

Cả hai cùng nhìn nhau, mặt trời đang ló dạng; hết đêm rồi. Chắc phải ngủ chút thôi.

TiengChuong.org