Trên đường về Đất Hứa, dân chúng phàn nàn với tổ phụ Môisen là họ chết khát nơi samạc. Môisen kêu cầu lên Chúa và Chúa phán dậy Môisen làm việc lạ thường. Thay vì chỉ cho ông biết nơi có mạch nước ngầm để đào giếng, Thiên Chúa nói với Môisen dùng cây gậy đang cầm trong tay đập vào tảng đá trước mặt. Lạ lùng thay, nước tuôn ra từ tảng đá khô. Ngoại trừ Thiên Chúa ra, ai có thể làm việc ngoài sức tưởng như thế. Việc không tưởng này lại xảy ra do chính Đức Kitô thực hiện nơi cuộc đời người phụ nữ mà toàn dân kết án bà là người có cuộc sống bất hảo. Sau cuộc đàm thoại tại bờ giếng, Đức Kitô biến con tim sỏi đá của bà thành con tim biết thông cảm, biết đáp trả tình thương. Sự việc xảy ra tại làng Sychar, miền Samarita. Dân làng thất bại trong việc đòi buộc người phụ nữ thay đổi lối sống bê tha, tệ rạc. Không toại nguyện, người ta đưa lời gay gắt chỉ trích, phê bình, chống báng, kết án và cuối cùng là từ chối giao thiệp, tiếp xúc với người phụ nữ. Người phụ nữ cũng không muốn gặp mặt họ bởi bà muốn tránh cái nhìn soi bói, cái liếc khinh khi, cái vẻ mặt khinh bỉ và ngay cả cái thì thầm, kháo mép của người thích buôn điều. Để tránh đụng chạm trên, người phụ nữ chọn lúc nắng nhất, nóng nảy nhất trong ngày đi kín nước giếng, bởi chính đó là lúc vắng người. Sự việc bất thường xảy ra. Hôm nay, từ đàng xa, bà nhìn thấy có người đàn ông ngồi cạnh giếng. Bà không còn chọn lựa, nhà hết nước nên đành phải đến kéo nước. Người đó gốc Do thái, tên là Giêsu. Ngạc nhiên thay, người đó hỏi bà xin nước uống. Ngạc nhiên bởi nhiều lí do. Thứ nhất, người Do Thái không làm bạn với người Samariatanô. Thứ hai, phái nam rất hiếm nhờ phụ nữ giúp, nhất là lại là người lạ; thứ ba dân Chúa chọn không thân thiết với người ngoài tôn giáo.

Có nhiều biến chuyển, thay đổi trong câu chuyện. Thứ nhất, Đức Kitô mở đầu câu chuyện xin người phụ nữ nước uống; sự việc xảy ra chính bà xin ngược lại, bà xin Đức Kitô cho bà nước. Thứ hai, người phụ nữ nói về nước giếng, Đức Kitô nói về nước tâm linh, nước hằng sống. Thứ ba, dân làng trước đây khinh bỉ bà; giờ đây họ lắng nghe bà. Thứ tư, người phụ nữ bỏ gầu múc nước tại bờ giếng ngụ í nói trong tương lai bà không cần nó nữa. Cuối cùng, người phụ nữ từ bỏ lối sống bê tha, tệ rạc, tiến bước theo con đường lành, thánh thiện.

Đức Kitô mở đầu câu chuyện xin bà nước uống. Câu chuyện tiến xa hơn một bước; đi vào đời tư người phụ nữa. Từ đó chuyện nước giếng tiến đến chuyện nước tâm linh, nước hằng sống. Sau cùng đến loại nước thượng hảo hạng đó là nước trường sinh- Nước hằng Sống. Nước hằng sống mang í nghĩa nước đó không phải chỉ giúp cho con người có sự sống thường, mà nước đó còn có sức mạnh ban sự sống trường sinh. Để nhận được sự sống trường sinh cần thay đổi lối sống. Nuớc suối, nước sông chảy cuốn trôi rong rêu, cát bụi cùng mọi thứ trong sông. Nước trường sinh là nước hằng sống; nước chảy cuốn theo 'rác rưởi' cuộc đời người phụ nữ, rửa sạch bụi đời bà; xoá tan quá khứ bà; và ban cho bà cuộc sống mới tươi mát, trong lành.

Uống nước giếng sẽ còn khát dài dài; nhận nước trường sinh sẽ không còn phải kéo nước nữa bởi nước đó trở thành nguồn sống phát ra từ cõi lòng. Đức Kitô nói với người phụ nữ,

'Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời'. Gn 4,14.

Người phụ nữ từ nay không cần gầu kéo nước nữa. Đức Kitô biết rõ quá khứ bà nhưng Ngài không trách móc, cũng không kết án, cũng không to tiếng. Chính những điểm này khuyến khích, cổ động bà cởi mở hơn, thổ lộ cõi lòng đau khổ, uất ẩn chất ngất, thầm kín trong tim. Người phụ nữ thành khẩn thú nhận bà mong mỏi nước hằng sống nhưng không biết làm cách nào để có được. Đức Kitô nói với bà hãy đi gọi chồng bà ra gặp Ngài. Bà thành thật thú nhận,

'Tôi không có chồng'.

Đức Kitô nói với bà,

'Chị nói tôi không có chồng, là sự thật'. Gn 4,17.

Sự thật không những đã giải thoát chị, mà còn giúp chị từ từ nhận ra chân lí. Chị nói với Đức Kitô

'Thưa Ngài, tôi biết Ngài là một ngôn sứ' Gn 14,19.

Từ đó chị tỏ lộ thêm kiến thức nơi thờ phượng đấng Thiên Sai. Điều này cho biết điều chị học từ nhỏ đã không bị quên lãng. Nó bị lơ là, không thực hành nhưng không bị lãng quên. Đức Kitô nhẹ nhàng hướng dẫn chị về việc thờ phượng. Ngài nói với chị cách thờ phượng chính đáng nhất.

'Thiên Chúa là Thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật' Gn 4,24.

Nghe Đức Kitô giảng giải, đức tin chị tiến một bước dài. Chị nhận biết Ngài là Đấng Thiên Sai- Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Đức kitô tỏ lộ cho chị biết

'Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây'. Gn 4,25

Người phụ nữ vui mừng chạy về làng vừa thông báo vừa tự thú.

Có một Đấng, phải là Đấng Thiên Sai, mới biết rõ tất cả những gì tôi đã làm trong quá khứ (Gn 4,29). Dân làng kéo đến đông đảo. Họ lắng nghe Ngài và đồng lòng kết luận,

'Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết Người thật là Đấng Thiên Sai' Gn 4,42.

Người phụ nữ hoán cải, con tim chân thành của bà dẫn người khác đến cùng Đức Kitô.

TiengChuong.org

Boundary Crossing

On their way to the Promised Land, the chosen people complained to Moses that they had no water. Moses appealed to God. Instead of telling Moses where to dig a well, God told him to strike the rock. Surprisingly, the water gushed out from the rock. Only the Almighty God can do such an impossibility. This incredibility is going to happen at Sychar. Jesus changes the 'stony' heart of the woman to be the heart of flesh. All the villagers fail to change her 'immoral way' of life. They punish her by refusing to associate with her. She herself avoids some sort of 'unfriendly look' from her own people, and protests their negativity by whispering about her behaviour. She chooses the hottest time of the day, and also a quiet time, to draw water from the village well. From afar, she sees a man sitting next to the well. She has no alternative because she needs water. His name is Jesus, and he asks her for a drink. She feels that it is rather an unusual request; because Jews don't associate with Samaritans; men don't seek help from women, and the 'chosen people' aren't friend of the pagan.

There are twists and turns in this story. First, Jesus asks the woman for a drink; it turns out she is the one who asks for a drink. Second, the woman talks about the physical water, while Jesus talks about different kinds of water, the spiritual water. Third, her villagers judge her badly, they now listen to her. Fourth, the woman leaves her drawing bucket at the well which indicates the significant change in her life; and finally, her 'immoral way of life' changes to the way of compassion and love.

Jesus initiates the conversation by asking the woman for a drink. It then moves to the next level, the living water, and finally arrives at the highest level, the everlasting water. The living water implies both a life-changing, and also eternal life. It is life-changing because it is running water, flowing water, not stagnant water. Flowing water brings freshness and purification. It will purify the woman's life; that erase her past life as we see it later on. Drinking water from the well will get thirsty again, but the living water Jesus gives

'will never be thirsty again' because the living water 'will turn into a spring inside him, welling up to eternal life' Jn 4,14.

This indicates the woman no longer needs the bucket to draw water. Jesus knew of her past. He told her about it, without judging or condemning her; and that encouraged her to review her entire life and make changes. The woman desires to receive living water; but doesn't know how. When Jesus asks her to call her husband; her honesty reveals her inner life; she replies that

'I have no husband'.

Jesus tells her

'You are right Jn 4,17'.

The truth sets her free. The woman begins to see the stranger as a prophet.

'I see you are a prophet'.

Her faith in Jesus moves to the next level, from being a prophet to being the Messiah. She expresses her desire for the true way of worship. The case is now reversed; it is she who asks Jesus for living water. Jesus told her the true way of worship,

'The kind of worshipper the Father wants. God is spirit, and those who worship must worship in spirit and truth' Jn 4,24.

Her faith in Jesus is deepened, and is able to bear the truth; that Jesus is the Messiah- The Christ. Jesus reveals himself to her, saying,

'I who am speaking to you'. Jn 4, 25.

The woman is truly honest, making a public confession,

'He told me all I have ever done'. Jn 4, 29.

This news made the villagers come to Jesus. They listened to him and confess that

'He really is the saviour of the world'. Jn 4,42

The woman's conversion of the heart brings Jesus to others.