Đại lễ kính Thánh Phêrô Hoàng Khanh
Trong một thập niên trở lại đây, từ ngày Đền thờ Thánh Phêrô Hoàng Khanh được xây dựng tại giáo họ Trung Hậu, thuộc giáo xứ chính tòa Xã Đoài, mỗi năm khi đến ngày lễ kính thánh nhân, hàng ngàn tín hữu trong giáo phận và cả nhiều người lương dân trong tỉnh Nghệ An hành hương về nơi đây để tham dự thánh lễ tạ ơn và cầu khấn với ngài. Thánh lễ kính ngài năm nay vào lúc 8h30’ do Đức cha Phaolô Maria chủ tế, hơn 40 linh mục đồng tế, có đông đảo tu sĩ nam nữ, chủng sinh ĐCV và khoảng 8.000 người tham dự.
Sở dĩ, hằng năm vào ngày lễ kính thánh Phêrô Hoàng Khanh có nhiều người tham dự như vậy, trước hết vì ngài là linh mục Giáo phận Vinh; kế đến, do ngày lễ kính 18-02 thường là còn nằm trong những ngày đầu Xuân.
1. Đôi nét tiểu sử Thánh Phêrô Hoàng Khanh (1780-1842)
Cuộc đời thánh Phêrô Hoàng Khanh gợi lên cho chúng ta một mùa gặt phong phú. Một người đổ mồ hôi gieo giống trên nương đồng, đến ngày thu hoạch thì vui ca, tay ôm bó lúa chín vàng lựng hương (Tv 125). Vì giữa những ngày bị bách hại đen tối, khi chủng viện chính thức bị giải tán, cha Hoàng Khanh là người đã đào tạo được 40 chủng sinh, trong số đó thành đạt tám linh mục.
Phêrô Hoàng Khanh sinh khoảng năm 1780 tại làng Nguyên Kiệt, xã Hòa Duyệt, tỉnh Nghệ An, sau theo cha mẹ lên Lương Khế (nay là xứ Trung Hòa). Ngay từ nhỏ, cha mẹ đã gửi cậu vào trong nhà xứ để được đào tạo thành thầy giảng. vì thiệt thành với giáo hội và thấy rõ nhu cầu dân Chúa, thầy Khanh xin phép và được bề trên chấp nhận cho học thêm để trở thành linh mục. Tới năm 22 tuổi, theo giúp cha già Đại. Nếu ngày xưa thánh Ignatiô đã ngoài 30 tuổi còn cắp sách đến trường thì thầy Khanh năm 25 tuổi mới bắt đầu vật lộn với những mẫu chia danh từ Latinh đầu tiên. Suốt 14 năm liền, thầy kiên trì tự học, tìm các linh mục để hỏi thêm và cuối cùng thầy được toại nguyện, được vào Chủng viện Vĩnh Trị. Năm 1819, khi đã 39 tuổi, thầy thụ phong linh mục tại Thọ Kỳ (Thọ Ninh ngày nay) do Ðức Cha phó Guérard Ðoan.
Như một nhà thám hiểm leo núi, khi đã tới đỉnh núi, nhìn thấy cả một bầu trời rộng lớn bao la thì muốn mời gọi nhiều người cùng lên cao với mình. Cha Khanh sau khi đã lãnh sứ vụ linh mục, nhìn thấy rõ hơn cánh đồng Việt Nam bát ngát còn thiếu thợ gặt, biết bao tín hữu cần người săn sóc rao giảng Tin Mừng cứu độ. Cha thấy rõ số thừa sai và linh mục bạn nằm xuống trong cuộc bách hại, việc truyền giáo cần những bàn tay kế thừa và phát triển. do đó, tuy bận rộn với việc mục vụ, cha đầu tư mọi khả năng của mình đào tạo linh mục tương lại.
Theo sự điều động của giáo phận, cha phục vụ tại nhiều nơi: phụ trách xứ Trại Lê (7 năm), Quỳnh Lưu (14 năm), rồi sau đến các xứ Thọ Kỳ (Thọ Ninh ngày nay) (1 năm), Làng Truông (1 năm), Ngàn Sâu. Nhưng bất cứ ở nhiệm sở nào, bất cứ lúc nào, nhà cha cũng là một tiểu chủng viện thu hẹp. Cha nuôi một số thiếu niên nam, dạy giáo lý, hướng dẫn và gợi lên trong các em nhiệt tâm tông đồ. Với tình yêu của người cha, với sự thận trọng tinh tế của một nghệ sĩ, cha chú tâm vào việc đào tạo những nhà lãnh đạo tương lai trong Giáo hội.
Bên cạnh những bài học và lời giáo huấn, chính đời sống cha là một gương sống động cho họ, khi cha dâng lễ, mọi người như gặp gỡ được Thiên Chúa. Khi cha giảng, mọi người đều thấy sốt sắng thêm lên. Không bao giờ cha ngại ngùng với bất cứ điều gì. Vì ích lợi các linh hồn, cha vui vẻ chu toàn các công tác không một lời ta thán. Giữa đêm khuya, nếu có ai gọi đi giúp bệnh nhân, sẽ thấy cha nhanh nhẹn thế nào.
Trong một giai đoạn lịch sử khó khăn, việc đào tạo phải thực hiện cách lén lút và riêng tư từng người một thì con số 40 chủng sinh, tám linh mục, quả là con số đáng kể với 22 năm linh mục của cha, quả là bó lúa vàng nặng trĩu hạt mà cha đóng góp được cho Giáo hội Việt Nam.
Năm 1841, vua Minh Mạng băng hà, tình hình Giáo hội có vẻ tự do hơn, cha Khanh càng an tâm và hăng say với sứ vụ tông đồ hơn trước. Nào ngờ cuối tháng 1.1842, khi tháp tùng cha Masson, phụ tá giám quản đi công tác ở Hà Tĩnh, cha bị quân lính chặn lại khám xét và bắt giam.
Mới vào tù được ít bữa, cha đã được mọi người kể cả lính canh ngục quí mến vì tính vui vẻ và hòa nhã. Uy tín của cha gia tăng nhờ tài năng y sỹ, nhất là sau một lần chữa bệnh nổi tiếng. Viên cai ngục ở Hã Tĩnh có một cô tình nhân đang mang thai lại mắc bệnh, cô đã chạy nhiều thầy thuốc nhưng vẫn chưa khỏi. Nghe lời đồn đãi, ông cai đến nhờ cha Khanh chữa trị, và đích thân đưa cha đến phòng bệnh nhân.
Sau khi chẩn bệnh, cha kê cho ông một toa thuốc nam gồm năm loại dược thảo để sắc lên cho bệnh nhân uống. Sáng hôm sau, một gia nhân của ông cai đến lạy cha ba lạy để báo tin bệnh đã thuyên giảm. Cha hỏi lại bệnh đã giảm thật chưa, rồi cho thêm một ngày nữa, đến ngày thứ ba bệnh khỏi hẳn. Từ đó, khắp miền Hà Tĩnh đều biết tiếng và ca tụng người tù nhân là thầy thuốc “mát tay”. Nhưng điều cha vui mừng thực sự không phải vì tiếng đồn cho bằng việc có nhiều người đến xin học đạo, trong đó có song thân của quan án. Ngay cả cô gái đã được cha chữa trị, sau khi sinh con trai, cũng đến xin cha rửa tội cho mình và con.
Vì mến phục vị chứng nhân đức tin, các quan tỉnh tìm cách cứu cha khỏi chết. Các ông đề nghị cha giấu chức vụ linh mục, trước sau cứ khai nghề thầy lang thì họ tìm cách xin ân xá. Nhưng cha Khanh không chấp nhận đề nghị phải nói dối ấy. Thế là bản án của cha được gởi về Huế để vua Thiệu Trị ký duyệt. Ngày 11.7.1842, bản án được gửi lại Hà Tỉnh kết án cha là “một kẻ điên rồ”, mù quáng và dốt nát đáng chém đầu.
Ngay sáng hôm sau, 12.7.1842, bản án được thi hành, chấm dứt năm tháng rưỡi ngục tù và 62 năm sống trên dương thế của vị chứng nhân đức tin. Thi thể vị tử đạo được đưa về Kẻ Gốm, cha Masson cử hành tang lễ cách trọng thể với sự tham dự đông đảo của các tín hữu. Ngày 18/2/1996, khánh thành Nhà thờ mới Trung Hậu, thi hài Ngài được cất giữ trong một Ðền thánh riêng, gần cung thánh, vì vậy lễ kính ngài được cử hành vào ngày 18/2 hằng năm.
Ngày 02.5.1909, Đức Giáo hoàng Piô X suy tôn cha Phêrô Hoàng Khanh lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
2. Phụng vụ trong màu sắc lễ hội
Như đã nói trên đây, ngày lễ kính thánh tử đạo Phêrô Hoàng Khanh 18-2 thường nhằm những ngày đầu Xuân, nên bầu không khí mừng kính ngài xen lẫn giữa lễ nghi tôn giáo và lễ hội dân tộc.
Không phải chỉ vào ngày chính lễ, mà ngay cả những ngày trước đó, nhiều tín hữu và bà con lương dân trong khi đi vui Xuân mừng Tết cũng đã ghé vào Đền Thánh để cầu khấn với thánh Phêrô Hoàng Khanh. Rồi ngay đêm trước ngày lễ, giáo họ Trung Hậu cũng đã tổ chức đêm canh thức đượm màu dân tộc để suy tôn và cầu nguyện cùng thánh nhân. Nhất là vào ngày chính lễ, ngay từ sáng sớm, nhiều người từ xa đã bất chấp giá lạnh, tìm về với Đền Thánh để tham dự thánh lễ và để được chia sẻ niềm vui của ngày đại lễ đầu năm. Thêm vào đó, có nhiều người lương dân cũng đã tham dự trọn vẹn thánh lễ và sau đó mang hoa hương đèn nến vào dâng kính thánh nhân khiến ngày lễ thực sự trở nên như lễ hội cho mọi người.
Chính vì như một lễ hội, nên ngay cả những trung tâm đào tạo như Dòng tu, Đại Chủng Viện Vinh Thanh, Tiền Chủng viện Vinh đều được nghỉ học để các tu sĩ, chủng sinh được hòa mình trong bầu không khí vui tươi, thánh thiêng này.
Trước đông đảo người tham dự như vậy, trong bài giảng lễ, sau khi lược qua cuộc đời của thánh nhân, Đức cha Phaolô Maria đã nói: “Quả thật, chúng ta phải cảm phục trước sự hy sinh anh dũng của Phêrô Hoàng Khanh. Nhưng phải nói rằng, cơ hội để được tử đạo như ngài cũng không phải là dễ: phải có môi trường để đổ máu vì Chúa. Nói như thế, không có nghĩa là ngày nay chúng ta không có dịp tử đạo như thánh nhân. Theo nguyên ngữ: tử đạo là làm chứng cho Chúa. Như thế, tử đạo không nằm ở giây phút chấm dứt sự sống thể chất vì Chúa, mà còn có thể bằng sự hy sinh mến yêu từng giây phút trong cuộc đời. Khi ta nỗ lực để chiến thắng những cám dỗ, tội lỗi, ích kỷ, thù hận; khi ta can đảm chống lại bất công, bênh vực những người cô thế cô thân, thấp cổ bé họng; khi ta dám dấn thân để phục vụ cho những lợi ích của xã hội, của mọi người, sống tử tế với tha nhân, thành thật với chính mình đó là lúc ta đang tử đạo.
Là người Kitô hữu, chúng ta phải liên lỉ bước theo Chúa trong hành trình vượt qua. Hãy can trường lên, vì có qua thập giá mới được cứu độ, qua đau khổ mới được vinh quang! Hạt lúa cuộc đời ta có mục nát đi mới đơm bông trổ hạt.”
Hẳn là mọi người đến đây, ngoài việc chung lời tạ ơn Thiên Chúa, cầu xin những phúc lành cho năm mới, gặp gỡ nhau đầu năm, mọi người còn muốn cất lên lời khấn nguyện như Đức cha: “Lạy thánh tử đạo Phêrô Hoàng Khanh là cha, là anh chúng con. Xin cầu cho mỗi người chúng con cũng biết sẵn sàng sống cho Chúa và cho anh em, để sau khi đi hết hành trình trần thế này, chúng con được đoàn tụ cùng cha trong gia đình Thiên Chúa, được hưởng mùa xuân không bao giờ tàn úa trên quê trời”.
Trong một thập niên trở lại đây, từ ngày Đền thờ Thánh Phêrô Hoàng Khanh được xây dựng tại giáo họ Trung Hậu, thuộc giáo xứ chính tòa Xã Đoài, mỗi năm khi đến ngày lễ kính thánh nhân, hàng ngàn tín hữu trong giáo phận và cả nhiều người lương dân trong tỉnh Nghệ An hành hương về nơi đây để tham dự thánh lễ tạ ơn và cầu khấn với ngài. Thánh lễ kính ngài năm nay vào lúc 8h30’ do Đức cha Phaolô Maria chủ tế, hơn 40 linh mục đồng tế, có đông đảo tu sĩ nam nữ, chủng sinh ĐCV và khoảng 8.000 người tham dự.
Sở dĩ, hằng năm vào ngày lễ kính thánh Phêrô Hoàng Khanh có nhiều người tham dự như vậy, trước hết vì ngài là linh mục Giáo phận Vinh; kế đến, do ngày lễ kính 18-02 thường là còn nằm trong những ngày đầu Xuân.
1. Đôi nét tiểu sử Thánh Phêrô Hoàng Khanh (1780-1842)
Cuộc đời thánh Phêrô Hoàng Khanh gợi lên cho chúng ta một mùa gặt phong phú. Một người đổ mồ hôi gieo giống trên nương đồng, đến ngày thu hoạch thì vui ca, tay ôm bó lúa chín vàng lựng hương (Tv 125). Vì giữa những ngày bị bách hại đen tối, khi chủng viện chính thức bị giải tán, cha Hoàng Khanh là người đã đào tạo được 40 chủng sinh, trong số đó thành đạt tám linh mục.
Phêrô Hoàng Khanh sinh khoảng năm 1780 tại làng Nguyên Kiệt, xã Hòa Duyệt, tỉnh Nghệ An, sau theo cha mẹ lên Lương Khế (nay là xứ Trung Hòa). Ngay từ nhỏ, cha mẹ đã gửi cậu vào trong nhà xứ để được đào tạo thành thầy giảng. vì thiệt thành với giáo hội và thấy rõ nhu cầu dân Chúa, thầy Khanh xin phép và được bề trên chấp nhận cho học thêm để trở thành linh mục. Tới năm 22 tuổi, theo giúp cha già Đại. Nếu ngày xưa thánh Ignatiô đã ngoài 30 tuổi còn cắp sách đến trường thì thầy Khanh năm 25 tuổi mới bắt đầu vật lộn với những mẫu chia danh từ Latinh đầu tiên. Suốt 14 năm liền, thầy kiên trì tự học, tìm các linh mục để hỏi thêm và cuối cùng thầy được toại nguyện, được vào Chủng viện Vĩnh Trị. Năm 1819, khi đã 39 tuổi, thầy thụ phong linh mục tại Thọ Kỳ (Thọ Ninh ngày nay) do Ðức Cha phó Guérard Ðoan.
Như một nhà thám hiểm leo núi, khi đã tới đỉnh núi, nhìn thấy cả một bầu trời rộng lớn bao la thì muốn mời gọi nhiều người cùng lên cao với mình. Cha Khanh sau khi đã lãnh sứ vụ linh mục, nhìn thấy rõ hơn cánh đồng Việt Nam bát ngát còn thiếu thợ gặt, biết bao tín hữu cần người săn sóc rao giảng Tin Mừng cứu độ. Cha thấy rõ số thừa sai và linh mục bạn nằm xuống trong cuộc bách hại, việc truyền giáo cần những bàn tay kế thừa và phát triển. do đó, tuy bận rộn với việc mục vụ, cha đầu tư mọi khả năng của mình đào tạo linh mục tương lại.
Theo sự điều động của giáo phận, cha phục vụ tại nhiều nơi: phụ trách xứ Trại Lê (7 năm), Quỳnh Lưu (14 năm), rồi sau đến các xứ Thọ Kỳ (Thọ Ninh ngày nay) (1 năm), Làng Truông (1 năm), Ngàn Sâu. Nhưng bất cứ ở nhiệm sở nào, bất cứ lúc nào, nhà cha cũng là một tiểu chủng viện thu hẹp. Cha nuôi một số thiếu niên nam, dạy giáo lý, hướng dẫn và gợi lên trong các em nhiệt tâm tông đồ. Với tình yêu của người cha, với sự thận trọng tinh tế của một nghệ sĩ, cha chú tâm vào việc đào tạo những nhà lãnh đạo tương lai trong Giáo hội.
Bên cạnh những bài học và lời giáo huấn, chính đời sống cha là một gương sống động cho họ, khi cha dâng lễ, mọi người như gặp gỡ được Thiên Chúa. Khi cha giảng, mọi người đều thấy sốt sắng thêm lên. Không bao giờ cha ngại ngùng với bất cứ điều gì. Vì ích lợi các linh hồn, cha vui vẻ chu toàn các công tác không một lời ta thán. Giữa đêm khuya, nếu có ai gọi đi giúp bệnh nhân, sẽ thấy cha nhanh nhẹn thế nào.
Trong một giai đoạn lịch sử khó khăn, việc đào tạo phải thực hiện cách lén lút và riêng tư từng người một thì con số 40 chủng sinh, tám linh mục, quả là con số đáng kể với 22 năm linh mục của cha, quả là bó lúa vàng nặng trĩu hạt mà cha đóng góp được cho Giáo hội Việt Nam.
Năm 1841, vua Minh Mạng băng hà, tình hình Giáo hội có vẻ tự do hơn, cha Khanh càng an tâm và hăng say với sứ vụ tông đồ hơn trước. Nào ngờ cuối tháng 1.1842, khi tháp tùng cha Masson, phụ tá giám quản đi công tác ở Hà Tĩnh, cha bị quân lính chặn lại khám xét và bắt giam.
Mới vào tù được ít bữa, cha đã được mọi người kể cả lính canh ngục quí mến vì tính vui vẻ và hòa nhã. Uy tín của cha gia tăng nhờ tài năng y sỹ, nhất là sau một lần chữa bệnh nổi tiếng. Viên cai ngục ở Hã Tĩnh có một cô tình nhân đang mang thai lại mắc bệnh, cô đã chạy nhiều thầy thuốc nhưng vẫn chưa khỏi. Nghe lời đồn đãi, ông cai đến nhờ cha Khanh chữa trị, và đích thân đưa cha đến phòng bệnh nhân.
Sau khi chẩn bệnh, cha kê cho ông một toa thuốc nam gồm năm loại dược thảo để sắc lên cho bệnh nhân uống. Sáng hôm sau, một gia nhân của ông cai đến lạy cha ba lạy để báo tin bệnh đã thuyên giảm. Cha hỏi lại bệnh đã giảm thật chưa, rồi cho thêm một ngày nữa, đến ngày thứ ba bệnh khỏi hẳn. Từ đó, khắp miền Hà Tĩnh đều biết tiếng và ca tụng người tù nhân là thầy thuốc “mát tay”. Nhưng điều cha vui mừng thực sự không phải vì tiếng đồn cho bằng việc có nhiều người đến xin học đạo, trong đó có song thân của quan án. Ngay cả cô gái đã được cha chữa trị, sau khi sinh con trai, cũng đến xin cha rửa tội cho mình và con.
Vì mến phục vị chứng nhân đức tin, các quan tỉnh tìm cách cứu cha khỏi chết. Các ông đề nghị cha giấu chức vụ linh mục, trước sau cứ khai nghề thầy lang thì họ tìm cách xin ân xá. Nhưng cha Khanh không chấp nhận đề nghị phải nói dối ấy. Thế là bản án của cha được gởi về Huế để vua Thiệu Trị ký duyệt. Ngày 11.7.1842, bản án được gửi lại Hà Tỉnh kết án cha là “một kẻ điên rồ”, mù quáng và dốt nát đáng chém đầu.
Ngay sáng hôm sau, 12.7.1842, bản án được thi hành, chấm dứt năm tháng rưỡi ngục tù và 62 năm sống trên dương thế của vị chứng nhân đức tin. Thi thể vị tử đạo được đưa về Kẻ Gốm, cha Masson cử hành tang lễ cách trọng thể với sự tham dự đông đảo của các tín hữu. Ngày 18/2/1996, khánh thành Nhà thờ mới Trung Hậu, thi hài Ngài được cất giữ trong một Ðền thánh riêng, gần cung thánh, vì vậy lễ kính ngài được cử hành vào ngày 18/2 hằng năm.
Ngày 02.5.1909, Đức Giáo hoàng Piô X suy tôn cha Phêrô Hoàng Khanh lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
2. Phụng vụ trong màu sắc lễ hội
Như đã nói trên đây, ngày lễ kính thánh tử đạo Phêrô Hoàng Khanh 18-2 thường nhằm những ngày đầu Xuân, nên bầu không khí mừng kính ngài xen lẫn giữa lễ nghi tôn giáo và lễ hội dân tộc.
Không phải chỉ vào ngày chính lễ, mà ngay cả những ngày trước đó, nhiều tín hữu và bà con lương dân trong khi đi vui Xuân mừng Tết cũng đã ghé vào Đền Thánh để cầu khấn với thánh Phêrô Hoàng Khanh. Rồi ngay đêm trước ngày lễ, giáo họ Trung Hậu cũng đã tổ chức đêm canh thức đượm màu dân tộc để suy tôn và cầu nguyện cùng thánh nhân. Nhất là vào ngày chính lễ, ngay từ sáng sớm, nhiều người từ xa đã bất chấp giá lạnh, tìm về với Đền Thánh để tham dự thánh lễ và để được chia sẻ niềm vui của ngày đại lễ đầu năm. Thêm vào đó, có nhiều người lương dân cũng đã tham dự trọn vẹn thánh lễ và sau đó mang hoa hương đèn nến vào dâng kính thánh nhân khiến ngày lễ thực sự trở nên như lễ hội cho mọi người.
Chính vì như một lễ hội, nên ngay cả những trung tâm đào tạo như Dòng tu, Đại Chủng Viện Vinh Thanh, Tiền Chủng viện Vinh đều được nghỉ học để các tu sĩ, chủng sinh được hòa mình trong bầu không khí vui tươi, thánh thiêng này.
Trước đông đảo người tham dự như vậy, trong bài giảng lễ, sau khi lược qua cuộc đời của thánh nhân, Đức cha Phaolô Maria đã nói: “Quả thật, chúng ta phải cảm phục trước sự hy sinh anh dũng của Phêrô Hoàng Khanh. Nhưng phải nói rằng, cơ hội để được tử đạo như ngài cũng không phải là dễ: phải có môi trường để đổ máu vì Chúa. Nói như thế, không có nghĩa là ngày nay chúng ta không có dịp tử đạo như thánh nhân. Theo nguyên ngữ: tử đạo là làm chứng cho Chúa. Như thế, tử đạo không nằm ở giây phút chấm dứt sự sống thể chất vì Chúa, mà còn có thể bằng sự hy sinh mến yêu từng giây phút trong cuộc đời. Khi ta nỗ lực để chiến thắng những cám dỗ, tội lỗi, ích kỷ, thù hận; khi ta can đảm chống lại bất công, bênh vực những người cô thế cô thân, thấp cổ bé họng; khi ta dám dấn thân để phục vụ cho những lợi ích của xã hội, của mọi người, sống tử tế với tha nhân, thành thật với chính mình đó là lúc ta đang tử đạo.
Là người Kitô hữu, chúng ta phải liên lỉ bước theo Chúa trong hành trình vượt qua. Hãy can trường lên, vì có qua thập giá mới được cứu độ, qua đau khổ mới được vinh quang! Hạt lúa cuộc đời ta có mục nát đi mới đơm bông trổ hạt.”
Hẳn là mọi người đến đây, ngoài việc chung lời tạ ơn Thiên Chúa, cầu xin những phúc lành cho năm mới, gặp gỡ nhau đầu năm, mọi người còn muốn cất lên lời khấn nguyện như Đức cha: “Lạy thánh tử đạo Phêrô Hoàng Khanh là cha, là anh chúng con. Xin cầu cho mỗi người chúng con cũng biết sẵn sàng sống cho Chúa và cho anh em, để sau khi đi hết hành trình trần thế này, chúng con được đoàn tụ cùng cha trong gia đình Thiên Chúa, được hưởng mùa xuân không bao giờ tàn úa trên quê trời”.