CÁC LUẬT SƯ NGUYỄN VĂN ĐÀI VÀ LÊ THỊ CÔNG NHÂN
BỊ TRUY TỐ VỀ TỘI TUYÊN TRUYỀN CHỐNG NHÀ NƯỚC


Theo bản cáo trạng, các Luật Sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân bị truy tố ra Tòa Án Nhân Dân Thành Phố Hà Nội về tội tuyên truyền chống Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chiếu Điều 88 Khoản 1 Điểm (a) và (c) Hình Luật mà hình phạt có thể đến 12 năm tù.

Các Luật Sư bị trách cứ đã có những hành vi phỉ báng chính quyền và chống Nhà Nước bằng tuyên truyền

xuyên tạc, và tàng trữ, phát hành các tài liệu có nội dung chống Nhà Nước CHXHCNVN.

Khoản 1 Điểm (b) kết án tội “dùng chiến tranh tâm lý để tuyên truyền gây hoang mang trong nhân dân”. Đây là một tội lỗi thời, tàn tích của thời chiến tranh lạnh. Người Cộng Sản thường lầm lẫn luật pháp với chính trị. Họ đã sáng chế ra những tội trạng giả tạo phi pháp lý như phản động, hay phản cách mạng, địa chủ hay cường hào ác bá v...v...Vì đối với họ, chính trị là thống soái và luật pháp là công cu.ï Bộ Luật Hình Sự 1985 trong Lời Nói Đầu cũng xác nhận điều đó: “Trong hệ thống pháp luật của nước Cộng Hòa XHCNVN, luật hình sự là một công cụ sắc bén của Nhà Nước chuyên chính vô sản để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đấu tranh góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”.

Trong chiều hướng đó Quốc Hội đã ban hành những đạo luật hình sự quy định những tội trạng bịa đặt giả tạo và cưỡng ép lố bịch với những yếu tố cấu thành tội trạng hết sức bao quát và mơ hồ, như các tội tuyên truyền chống nhà nước, tuyên truyền chống chế độ, lợi dụng quyền tự do dân chủ, phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia, phá hoại chính sách đoàn kết quốc tế, gián điệp, phản nghịch hay hoạt động nhằm lật đổ chính quyền v...v...

Nếu Hình Luật Hoa Kỳ cũng quy định những tội bịa đặt giả tạo và cưỡng ép lố bịch tương tự như vậy, thì ngày nay rất nhiều ứng cử viên thuộc Đảng Dân Chủ đối lập sẽ có thể bị truy tố và kết án về các tội tuyên truyền chống Nhà Nước, phỉ báng chính phủ, phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia, lợi dụng quyền tự do dân chủ, và đặc biệt là tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền vào tháng 11 tới đây.

Những yếu tố cấu thành tội (bịa đặt) tuyên truyền chống nhà nước, như tuyên truyền xuyên tạc, nói xấu hay phỉ báng chính quyền, lưu trữ phát hành các tài liệu chống chính phủ cũng có thể dùng để kết tội “phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia” của Điều 87 mà hình phạt có thể đến 15 năm tù. Vì các yếu tố tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền hay lưu trữ phát hành các tài liệu chống Nhà Nước cũng có thể được tòa án nhân dân coi là những hành vi cố ý gây chia rẽ giữa nhân dân và chính quyền, giữa các giáo dân và chính quyền, là những yếu tố cấu thành tội (giả tạo) “phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia”.

Từ thập niên 70, nhà cầm quyền Cộng Sản đã bắt giam tại các trại cải tạo những người đối kháng có những hành vi bị coi là tuyên truyền chống chế độ như Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế hay Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt v...v.... Từ thập niên 1980, họ đã dùng tòa án để truy tố cũng về tội tuyên truyền chống chế độ (Điều 82 cũ), và đã kết án 3 người con của cố Luật Sư Trần Văn Tuyên là Trần Vọng Quốc, Trần Tử Thanh và Trần Tử Huyền, và tiếp đến là Luật Sư Đoàn Thanh Liêm.

Qua thập niên 1990, họ đã truy tố về tội (cưỡng ép), phản nghịch hay hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 73 cũ), và đã kết án Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế, Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt, Giáo Sư Nguyễn Đình Huy v...v.... Cũng trong thời gian này, họ đã truy tố về tội phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia, và đã kết án Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Giáo Sư Hoàng Minh Chính v...v... Trước đó, năm 1983, Linh Mục Nguyễn Văn Lý cũng bị truy tố và kết án về tội này.

Từ năm 2000, họ đã truy tố về tội (cưỡng ép) gián điệp, và đã kết án Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn và Nguyễn Vũ Bình. Đồng thời họ cũng truy tố và kết án Phạm Quế Dương, Trần Khuê, Trần Dũng Tiến, Nguyễn Đan Quế v...v... về tội (giả tạo) lợi dụng quyền tự do dân chủ.

Năm 2005 họ đã đệ đơn yêu cầu Tòa Án Thái Lan truyền dẫn độ Lý Tống về Việt Nam vì đã rải truyền đơn chống chính phủ tại Saigon, để trả lời về tội (cưỡng ép) xâm phạm an ninh lãnh thổ quốc gia. Và đầu tháng tư năm nay Tòa Phúc Thẩm Bangkok đã bác đơn xin dẫn độ của nhà cầm quyền Hà Nội.

Và ngày 30 tháng 3 vừa qua họ đã kết án Linh Mục Nguyễn Văn Lý về tội (giả tạo) tuyên truyền chống nhà nước. Năm 2002 Lê Chí Quang cũng bị truy tố và kết án về tội này.

Hiện nay, ngoài các Luật Sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân, có thêm 4 luật sư khác cũng đang bị điều tra truy tố về tội này, là các Luật Sư Lê Quốc Quân, Bùi Kim Thành, Nguyễn Thị Thùy Trang và Nguyễn Bắc Truyền. Trái với dư luận thông thường, đây không phải là một chiến dịch nhằm tước đoạt quyền biện hộ của luật sư trước tòa án. Vì tòa án nhân dân đâu có đếm xỉa đến những lời biện hộ của luật sư. Ngày nay, cũng như luật pháp, tòa án đã biến thành một công cụ của Đảng Cộng Sản với sứ mạng bạc bẽo là “củng cố chính quyền và xây dựng chế độ độc tài toàn trị của Đảng Cộng Sản”.

VỀ MẶT TỘI TRẠNG

Tuyên truyền chống chế độ hay tuyên truyền chống Nhà Nước là những tội giả tạo bịa đặt không tìm thấy trong bất cứ bộ hình luật nào của các quốc gia văn minh trên thế giới. Vì tuyên truyền chỉ là việc hành sử quyền tự do tư tưởng và tự do phát biểu quan điểm đã được luật pháp quốc gia và công pháp quốc tế thừa nhận. Từ giữa thế kỷ 19 khi Các Mác công bố bản Tuyên Ngôn Cộng Sản kêu gọi vô sản toàn thế giới đứng lên đấu tranh võ trang để lật đổ chế độ và nhà nước tư bản chủ nghĩa, ông ta cũng không bị Tòa Án Luân Đôn truy tố về tội tuyên truyền chống chế độ tư bản. Và từ hơn một thế kỷ rưỡi nay, các quốc gia văn minh cũng không truy tố các môn đệ của Mác về tội này.

Từ thập niên 1990, với cuộc Cách Mạng Dân Chủ tại Đông Âu và Liên Xô, chế độ mệnh danh là xã hội chủ nghĩa đã bị vứt vào thùng rác lịch sử. Để củng cố chính quyền, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã giảo hoạt thay đổi tội danh, từ tuyên truyền chống chế độ (Điều 82 cũ) thành tuyên truyền chống nhà nước (Điều 88).

Chiếu Điều 15 Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị “không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm nếu những điều ấy, không cấu thành tội hình sự chiếu luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế. Luật pháp quốc tế là những nguyên tắc luật pháp tổng quát dược thừa nhận bởi cộng đồng các quốc gia”. (cụ thể là những nguyên tắc ghi chú trong Luật Quốc Tế Nhân Quyền do Liên Hiệp Quốc ban hành). Nguyên tắc này cũng đã được ghi trong Điều 11 Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.

Việt Nam đã gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 1977 nên có nghĩa vụ pháp lý phải tôn trọng và thực thi những điều khoản ghi trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Phụ Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.

Việt Nam đã ký kết tham gia Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị năm 1982, nên có nghĩa vụ pháp lý phải tôn trọng và thực thi những điều khoản ghi trong Công Ước này. Chiếu Điều 2 Công Ước, các quốc gia hội viên tham gia Công Ước này cam kết sẽ tôn trọng và bảo đảm thực thi những quyền tự do cơ bản đã được thừa nhận trong Công Ước cho tất cả mọi người sống trong lãnh thổ quốc gia.

Trong trường hợp những quyền tự do ghi trong Công Ước này chưa được quy định thành văn trong luật pháp và hiến pháp quốc gia, các quốc gia hội viên ký kết hay tham gia Công Ước có nghĩa vụ phải ban hành các đạo luật bổ túc theo tinh thần và bản văn các điều khoản nhân quyền của Công Ước để các quyền này được thực sự thi hành. Trong trường hợp quốc gia hội viên kết ước không quy định những quyền này trong luật pháp hay hiến pháp thì những điều khoản về nhân quyền và về những quyền tự do cơ bản của người dân ghi trong Công Ước vẫn có hiệu lực chấp hành và phải được áp dụng trước các tòa án quốc gia và quốc tế.

Ngày nay Việt Nam đã quy định thành văn trong Hiến Pháp hầu hết các nhân quyền và các quyền tự do cơ bản của người dân, như quyền tự do tôn giáo (Điều 70), quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 52), quyền bình đẳng cơ hội tham gia chính quyền (Điều 53), quyền tự do bầu cử và ứng cử (Điều 54), quyền tự do đi lại và cư trú (Điều 68), quyền tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền thông tin, quyền tự do hội họp, tự do lập hội, quyền biểu tình (Điều 69), quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được luật pháp bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm (Điều 71), quyền được suy đoán là vô tội (Điều 72), quyền riêng tư (Điều 73), quyền khiếu nại, khiếu tố các cơ quan chính quyền khi có sự lạm quyền phi pháp (Điều 74) v...v...

Tuy nhiên quyền tự do tư tưởng không được quy định trong Hiến Pháp vì Đảng Cộng Sản đòi nắm giữ độc quyền tư tưởng, buộc toàn dân phải “theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh".

Theo Điều 2 Hiến Pháp “Nhà Nước thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. (Chứ không thuộc về một đảng độc tôn, độc quyền là Đảng Cộng Sản)

Theo Điều 3 Hiến Pháp “Nhà Nước bảo đảm quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, và nghiêm trị mọi hành động xâm phạm những quyền và lợi ích của nhân dân”. (dầu rằng kẻ phạm pháp chính là Đảng Cộng Sản)

Theo Điều 6 Hiến Pháp “nhân dân sử dụng quyền lực Nhà Nước thông qua Quốc Hội là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. (Do đó Quốc Hội không thể là sản phẩm và công cụ của Đảng Cộng Sản. Hơn nữa Quốc Hội của nhân dân phải sinh hoạt theo nguyên tắc dân chủ đại nghị hay dân chủ pháp trị chứ không theo nguyên tắc “dân chủ tập trung phản dân chủ).

Theo Điều 11 Hiến Pháp “công dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách tham gia công việc của Nhà Nước và xã hội”. (Muốn thế phải thiết lập chế độ dân chủ pháp trị để Dân được quyền làm chủ Nhà Nước và bãi bỏ chế độ độc tài toàn trị trong đó Đảng Cộng Sản độc quyền lãnh đạo Nhà Nước và xã hội).

Theo Điều 52 Hiến Pháp “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.” (Do đó Đảng và Nhà Nước Cộng Sản không được phân biệt kỳ thị về chính kiến hay chính đảng đối lập với đảng cầm quyền).

Theo Điều 53 Hiến Pháp “công dân có quyền tham gia quản lý Nhà Nước” bằng cách hành sử quyền đối kháng, quyền tham gia chính quyền và quyền tự do tuyển cử là những hình thức của quyền Dân Tộc Tự Quyết.

Theo Điều 54 Hiến Pháp “công dân được quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc Hội”. (Do đó Đảng và Nhà Nước Cộng Sản không thể tước đoạt quyền tự do ứng cử của người dân bằng những ngăn cản do hiệp thương của các tổ chức ngoại vi hay do thanh lọc của địa phương). Vì cuộc đầu phiếu phải có tính phổ thông (phổ cập) và kín cho tất cả mọi công dân.

Những điều khoản Hiến Pháp nói trên tuyên dương quyền Dân Tộc Tự Quyết, quyền Đối Kháng, quyền Tham Gia Chính Quyền và quyền Tự Do Tuyển Cử của công dân. Vì Nhà Nước thuộc về nhân dân, nên chỉ có nhân dân có quyền lãnh đạo và quản trị nhà nước, Đảng Cộng Sản không thể tự ban cho mình quyền này.

Trong khi đó, Điều 4 Hiến Pháp dành độc quyền lãnh đạo Nhà Nước cho Đảng Cộng Sản nên đã tước đoạt quyền của nhân dân được có bình đẳng cơ hội tham gia chính quyền với tư cách cá nhân hay với tư cách đảng viên của các chính đảng. Điều 4 Hiến Pháp phải bị xóa bỏ vì nó đi trái với tinh thần và bản văn của các Điều 2, 3, 6, 11, 52, 53, 54 Hiến Pháp và đi trái với quyền Dân Tộc Tự Quyết. Quyền này đã được Luật Quốc Tế Nhân Quyền thừa nhận trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (các Điều 1 và 55), trong Phụ Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, trong Công Ước về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị và Công Ước về Những Quyền Kinh Tế Xã Hội và Văn Hóa (Điều Thứ Nhất).

Như ta đã biết, Dân Tộc Tự Quyết là quyền của người dân được tự do lựa chọn chế độ chính trị của quốc gia (như Cộng Hòa Dân Chủ hay Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa), và được quyền tự do ứng cử hay bầu lên các đại biểu của mình trong chính quyền để thực thi chế độ đó.

Về mặt quốc tế công pháp, các công ước quốc tế như Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị là những hiệp ước quốc tế đã được quốc hội phê chuẩn nên có giá trị pháp lý cao hơn luật pháp và hiến pháp quốc gia. Do đó trong trường hợp có những điều khoản mâu thuẫn giữa Luật Pháp Quốc Gia và Công Ước Quốc Tế thì tòa án phải tham chiếu và áp dụng những điều khoản của Công Ước Quốc Tế.

Hơn nữa, chiếu Điều 5 Công Ước Dân Sự Chính Trị, tòa án không được giải thích xuyên tạc luật pháp quốc gia hay công ước quốc tế để cho phép chính phủ hay tòa án làm những hành vi hay tuyên những bản án nhằm phủ nhận hay tước đoạt của người dân những quyền tự do cơ bản đã được luật pháp quốc gia và công ước quốc tế thừa nhận.

VỀ CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI TRẠNG

Điều 88 Hình Luật quy định tội tuyên truyền chống nhà nước với những yếu tố cấu thành tội trạng như tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền và tàng trữ, phát hành các tài liệu có nội dung chống Nhà Nước.

Như đã trình bày, tuyên truyền không phải là một tội hình sự dù là tuyên truyền chống chính phủ. Đây chỉ là việc hành sử quyền tự do tư tưởng, tự do phát biểu, quyền đối kháng và quyền thay thế chính quyền bằng tự do tuyển cử. Những quyền này đã được nhân loại văn minh đề xướng từ thế kỷ 18.

Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp 1789 quan niệm “quyền tự do phát biểu là một quyền cao quý nhất của con người. Và mục đích của sự thành lập quốc gia là để bảo vệ cho người dân những quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm như quyền tự do, quyền tư hữu, quyền an ninh và quyền đối kháng bạo quyền”.

Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ 1776 minh thị quy định: “khi chính quyền vi phạm dân quyền, người dân có quyền đứng lên đối kháng lật đổ chính quyền để thay thế bằng một chính quyền mới thuận lợi cho việc bảo đảm an ninh và hạnh phúc của người dân”.

Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền cũng thừa nhận quyền đối kháng và quyền thay thế chính quyền như là một hình thức của quyền Dân Tộc Tự Quyết: “Điều cốt yếu là nhân quyền phải được một chế độ dân chủ pháp trị bảo vệ để con người khỏi bị dồn vào thế cùng phải đứng lên đối kháng chống áp bức và bạo quyền”.

Ngày nay, trong những cuộc vận động tuyển cử, muốn hành sử quyền tham gia chính quyền, các ứng cử viên đối lập có quyền phát biểu chỉ trích, phê bình hay lên án chính sách của Nhà Nước. Và quốc dân sẽ là người trọng tài để phán xét xem những lời phê bình chỉ trích này có trung thực không. Nếu không có sự cố ý xuyên tạc hay có chứa đựng những sự thật chính trị và xã hội, cử tri có quyền quyết định thay thế chính quyền cũ bằng một chính quyền mới đủ khả năng và thiện chí để đáp ứng những nguyện vọng và nhu cầu của nhân dân trong giai đoạn đó.

Vì con người không phải là á thánh nên xã hội cần phải có chính quyền. Và vì nhà cầm quyền cũng không phải là á thánh nên luật pháp phải dành cho người dân quyền kiểm soát, đối kháng, chế tài hay thay thế chính quyền. Nếu không có sự thông tin, phê bình và chỉ trích thì không thể có dân chủ. Nếu không được quyền thay thế hay lật đổ chính quyền thì đảng cầm quyền sẽ tha hóa thành độc tài, tham nhũng, bất công hay bất lực.

Như vậy, tuyên truyền chống chính phủ hay lên án nhà nước độc tài tham nhũng, bất công hay bất lực là những hành vi chính trị cần thiết trong một chế độ dân chủ pháp trị và không thể cấu thành một tội hình sự. Tại các quốc gia dân chủ, tòa án cũng không truy tố những tài liệu hay tác phẩm cổ võ chủ thuyết cộng sản (đòi hỏi lật đổ chế độ tư bản để thiết lập chế độ độc tài vô sản).

Tòa cho đó chỉ là việc hành sử quyền tự do phát biểu để cổ võ một lý thuyết chủ nghĩa về mặt trừu tượng (abstract doctrine). Chỉ khi nào có sự hô hào lật đổ chính phủ bằng võ trang và có việc khởi sự hành động võ trang gây nguy hại diện tiền cho an ninh quốc gia thì mới bị truy tố ra tòa, không phải về tội tuyên truyền chống nhà nước mà về tội phản nghịch. Tiêu chuẩn là phải có sự nguy hiểm rõ rệt rịn tiền thì tội trạng mới cấu thành. Nếu chỉ là lời tuyên truyền phê bình, chỉ trích hay lên án chính quyền bằng lời nói hay bằng bài viết thì chỉ là hành sử công khai, ôn hòa và hợp pháp quyền tự do phát biểu, tự do tư tưởng, và quyền đối kháng. Nếu những quyền này bị ngăn cấm và chế tài thì không thể có xã hội dân chủ và văn minh.

Theo luật pháp phổ thông người dân với tư cách cá nhân hay hội viên của các hội đoàn chính trị (chính đảng) có quyền và có trách nhiệm truyền bá các kiến thức nhân quyền cho dân chúng, đề xướng tranh thủ sự thực thi và bảo vệ nhân quyền và những quyền tự do cơ bản trên bình diện quốc gia và quốc tế. Đồng thời Nhà Nước có trách nhiệm tiên khởi và cũng có nghĩa vụ phải bảo vệ đề xướng và thực thi nhân quyền cùng những quyền tự do cơ sở bằng cách tạo các điều kiện và cơ chế cần thiết về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và luật pháp để tất cả mọi người trong nước được thực sự hưởng dụng những quyền tự do này với tư cách cá nhân hay thành viên của các hội dân sự và hội chính trị.

Mục đích để truyền bá, phổ biến những kiến thức nhân quyền cho tất cả mọi người, đặc biệt để góp phần loại trừ hữu hiệu các vi phạm về nhân quyền và về những quyền tự do cơ sở của người dân (Phần Mở Đầu và các Điều l và 2 Phụ Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc).

Do đó, tổ chức các khóa học tập và thảo luận về những vấn đề nhân quyền và những vấn đề chung của đất nước cho các học sinh sinh viên (ở đây là các sinh viên Trường Cao Đẳng về truyền thông, phát thanh và truyền hình), cũng như truyền bá sự thật (lịch sử và xã hội) và truyền bá nhân quyền cho các cộng tác viên (ở đây là các nhân viên Văn Phòng Luật Sư). Những hành vi này không phải là những yếu tố cấu thành tội tuyên truyền chống nhà nước.

Trong hiện vụ, để qui định tội trạng của bị can, Tòa Án phải phân biệt những trường hợp theo trình tự như sau:

Tuyên truyền chính trị về tư tưởng hay ý thức hệ chống lại chế độ tư bản hay vô sản chỉ là việc hành sử quyền tự do tư tưởng và tự do phát biểu quan điểm không cấu thành tội hình sự.

Tuyên truyền chính trị bằng cách in ấn và phát hành các sách báo cộng sản hay chống cộng sản cũng chỉ là việc phổ biến chủ nghĩa lý thuyết trừu tượng (abstract doctrine) không cấu thành tội hình sự.

Tuyên truyền chính trị bằng cách hô hào và lôi kéo những người khốn cùng hãy tập hợp võ trang và đứng lên lật đổ chế độ tư bản, như Các Mác đã làm tại Luân Đôn hồi giữa Thế kỷ19, cũng không cấu thành tội hình sự.

Rải truyền đơn kêu gọi và kích động nói xấu chính quyền và hô hào dân chúng đứng lên lật đổ chính quyền cũng không cấu thành tội hình sự (như phản quốc hay phản nghịch), nếu thực sự chưa có tập hợp võ trang và cũng chưa có khởi sự hành động võ trang của phe nổi dậy. Vì những hô hào kích động này chưa có hậu quả gây nên sự Nguy Hiểm Rõ Rệt Diện Tiền (Clear and Present Danger).

Tại các quốc gia dân chủ văn minh, tòa án độc lập không bao giờ truy tố và kết án người dân về tội tuyên truyền chính trị dầu là tuyên truyền chống chính phủ, chống chế độ hay chống nhà nước.

(California ngày 5-5-2007)