Chương mười một (tiếp theo)

Du lịch ở Greeneland

Vào thời hoàng kim của mình, Waugh thường bày tỏ sự ngạc nhiên khi không phải ai cũng trở thành người Công Giáo. Nó dường như đã ăn sâu vào bản chất của anh việc coi mọi thứ bên ngoài sự thật rõ ràng của đức tin là trống rỗng một cách nực cười. Đó có thể là “xã hội tạp nham” và một nỗi tuyệt vọng bị bóp nghẹt hoặc Giáo Hội Công Giáo và sự chắc chắn tối thượng: “Sự hoán cải giống như bước qua ống khói ra khỏi thế giới Gương soi, nơi mọi thứ đều là một bức tranh biếm họa ngớ ngẩn, để bước vào thế giới thực mà Thiên Chúa đã tạo ra; và sau đó bắt đầu một quá trình thú vị để khám phá nó một cách vô tận.” (32) Ngoại lệ trong công trình của anh, Brideshead Revisited, dường như cho phép có một số lựa chọn thay thế có tính ổn định và quyến rũ – trong các gia đình và ngôi nhà lớn của nước Anh, trong tình bạn, nghệ thuật cao, trong tình yêu lãng mạn – mặc dù tất cả những điều này đều tỏ ra không thỏa mãn về lâu về dài. Ngược lại, người cùng thời và đôi khi là người bạn của Waugh, Graham Greene, đã để mối liên hệ giữa Giáo hội và thế giới trở nên phức tạp hơn nhiều và đôi khi, căng thẳng tột độ, gần như bệnh lý tâm thần. Nhân vật Wilson của Greene trong The Heart of the Matter [Tâm điểm Vật chất] dường như đã xuất hiện từ chính kinh nghiệm của anh: “Từ lâu, anh đã không còn khả năng làm bất cứ điều gì trung thực như sự điên rồ; anh là một trong những người bị kết án phải phức tạp khi còn nhỏ.” (33) Thậm chí có rất ít tiếng cười châm biếm trong thế giới đó.



Các nhà viết tiểu sử (34) của Greene đã ghi nhận chính anh có cảm giác về một nhân cách bị chia rẽ từ rất sớm của mình, và người ta lập luận rằng anh mắc chứng rối loạn lưỡng cực [bipolar], dẫn đến một số ý định tự tử, bao gồm cả việc chơi bài rulét Nga như một cách “để thoát khỏi sự buồn chán”. Anh đã từng viết cho vị hôn thê của mình rằng dường như không có gì đáng làm ngoại trừ việc “bị giết bằng cách nào đó một cách thú vị”. (35) Ngoài ra, cả đời Greene cảm thấy bị thôi thúc bởi hành vi mạo hiểm và bị thu hút bởi những người tham gia vào nó. Trong A Sort of Life[Một loại cuộc sống], cuốn tự truyện của mình, anh đã viết rằng nếu phải chọn một đề từ (epigraph) cho tất cả các tác phẩm của mình, thì đó sẽ là những dòng này “Bishop Blougram’s Apology” [Lời xin lỗi của Giám mục Blougram] của Robert Browning:

Mối quan tâm của chúng ta là ở bờ vực nguy hiểm của sự vật.

Tên trộm lương thiện, kẻ giết người dịu dàng,

Người vô thần mê tín, người đàn bà lẳng lơ [demi-rep]

Điều yêu thương và cứu vớt linh hồn cô trong những cuốn sách tiếng Pháp mới—

Chúng tôi quan sát trong khi những người này ở trạng thái cân bằng giữ cho

Đường phù phiếm ở giữa
.” (36)

Mặc dù Greene chưa bao giờ chính xác là một người vô thần một khi anh đã trở lại đạo, nhưng anh có nhiều biểu hiện mê tín khác nhau, bao gồm cả việc không bao giờ viết nhiều hơn hoặc ít hơn năm trăm chữ mỗi ngày—và để làm được điều đó, đôi khi anh phải ra ngoài đường và nhìn một phối hợp số nào đó trên biển số xe hơi trước khi anh có thể bắt đầu. Nhưng “bờ vực nguy hiểm của sự vật” là quê hương của anh, và anh nói, tiểu thuyết của anh là một loại “giấc mơ được hướng dẫn” phát xuất từ sâu bên trong. Kết quả, tuy gặp rắc rối, nhưng rất mạnh mẽ, và chỉ vì anh là một người Công Giáo cởi mở nên anh chưa bao giờ giành được giải thưởng Nobel.

Robert Louis Stevenson là em họ của mẹ Greene, và ở Greene có một chút tính phiêu lưu mạo hiểm nào đó của Stevenson. Cha của Greene là hiệu trưởng trường Berkhamsted ở Hertfordshire, nơi anh theo học. Xem ra anh đã cảm thấy một sự căng thẳng giữa lòng trung thành của mình đối với gia đình và mong muốn chỉ là một cậu bé nữa trong số các cậu bé—và việc bị các cậu bé khác sách nhiễu không giúp ích được gì. Nhưng nhiều người thấy mình trong hoàn cảnh tương tự nhưng không biểu lộ cùng một độ của tính phân rẽ [dividedness] như vậy. Sẽ không phải chỉ là suy đoán khi cho rằng một số rạn nứt căn bản trong linh hồn Greene được phản ảnh - chứ không phải gây ra - bởi hoàn cảnh đầu đời của anh. Thật vậy, có thể các vấn đề tâm lý của Greene đã cho anh một cảm thức sống động hơn mức trung bình về cách thức mà tất cả các linh hồn đã bị chia cắt bởi tội lỗi, tội lỗi nguyên thủy và hiện tại. Và chủ đề bao quát đó đóng vai trò trung tâm trong hầu hết mọi tác phẩm văn học nghiêm túc của anh.

Trong những năm khởi đầu của mình, Greene đã viết “những chuyện giải trí”, tức là tiểu thuyết nhẹ nhàng hơn nhằm mục đích mua vui cho độc giả khi các bộ phim bắt đầu làm như thế dành cho đại chúng. Stamboul Train, England Made Me, The Confidential Agent, và The Ministry of Fear, tất cả đều được viết vào những năm 1930 và đầu những năm 40, thể hiện một con mắt tường thuật sắc bén và cảm thức phát triển về nhịp độ của một câu chuyện. Và anh tiếp tục không thường xuyên theo hướng này, đáng chú ý nhất là với tác phẩm châm biếm về các đặc vụ tình báo Anh — Bản thân Greene đã từng tham gia M16 trong Thế chiến thứ hai và dường như vẫn tích cực trong việc thu thập tình báo Anh cho đến khá muộn trong cuộc đời — Our Man in Havana (1958). Một số trong những tác phẩm này đã được chuyển thể thành phim, và Greene khuyến khích các nhà văn khác học hỏi từ sự hấp dẫn về mặt hình ảnh của phim. Ngoài ra, anh còn viết kịch bản phim, nổi tiếng nhất có lẽ là kịch bản The Third Man cho Orson Welles. Tất cả những tác phẩm này đều giữ được sức hấp dẫn nhất định, nhưng danh tiếng lâu dài của Greene phải phụ thuộc vào những tiểu thuyết nghiêm túc của anh, bắt đầu với The Power and the Glory [Quyền lực và vinh quang] (1940), câu chuyện về một “linh mục nghiện whisky” bị săn lùng bởi chính quyền cách mạng của Mexico thế kỷ XX. Thời kỳ tuyệt vời của Greene kéo dài từ lần ra mắt đó cho đến The Heart of the Matter (1948), The End of the Affair (1951), và cuối cùng là A Burnt-Out Case (1960).

Mỗi cuốn tiểu thuyết này đều được đánh dấu bằng một nước đôi - theo nghĩa chia rẽ nội bộ - đối với đức tin Công Giáo, không giống bất cứ nhà văn Công Giáo lớn nào khác vào thời điểm đó. Mauriac và Bernanos miêu tả một thế giới làm nô lệ cho quỷ dữ mà chưa một nhà văn viết tiếng Anh nào từng miêu tả. Nhưng Greene mô tả những đường đứt gẫy trong linh hồn tín hữu mà sau đó bắt đầu biến đi, do đó chính niềm tin cũng bị đánh mất — hoặc vì tuyệt vọng hoặc vì hoàn toàn không còn tin gì nữa. Greene đã viết trong những ngày đầu của phong trào phục hưng văn học Công Giáo, bắt nguồn từ sự trở lại đạo của John Henry Newman vĩ đại và sự thống trị trí thức của thế kỷ 19. Nhưng kiểu vừa đức tin vừa nghi ngờ [faith-cum-doubt] đặc biệt của anh đã tạo ra một hợp âm mới trong văn học Công Giáo. Một số cách nào đó, tính nước đôi của anh dự ứng một đặc điểm sẽ trở nên phổ biến hơn nơi người Công Giáo ngay trước, trong và sau Công đồng Vatican II—đặc biệt là ở các tiểu thuyết gia như Anthony Burgess, David Lodge và Brian Moore, những người đã bỏ đạo mặc dù lòng dạ vẫn gắn bó với đạo Công Giáo.

Thật khó để nói chính xác những gì đã thay đổi khiến điều này khả hữu. Greene đã trở thành người Công Giáo vào năm 1926 khi tán tỉnh người vợ tương lai của mình, chính nàng là một người trở lại đạo mà anh đã gặp khi nàng viết thư cho anh ở Oxford để nói với anh rằng anh đã xuyên tạc giáo lý Công Giáo trong một bài báo của anh. Khi họ đính hôn, Greene - khi đó đang sống ở Nottingham - quyết định nói chuyện với một linh mục địa phương, Cha Trollope, để ít nhất hiểu được niềm tin của người vợ tương lai của mình. Greene không chỉ có thành kiến theo cách thông thường của Thệ phản chống lại các thực hành Công Giáo, mà giống như nhiều người trong thế giới hiện đại, anh không nghĩ rằng mình có thể tin vào Thiên Chúa: “Tôi không có ý định được tiếp nhận vào Giáo Hội. Để một điều như vậy xảy ra, tôi cần phải tin chắc vào sự thật của nó và điều đó thậm chí không phải là một khả thể xa vời.” (37)

Cha Trollope là một người đàn ông to lớn, bản thân cũng đã trở lại đạo và từng là một diễn viên. Greene tiếp cận ngài với giả định rằng anh là một người ham ăn thả dàn và háo sắc bí mật: “Phải mất một thời gian trước khi tôi nhận ra rằng ấn tượng đầu tiên của mình là hoàn toàn sai lầm và rằng tôi đang đối mặt với thách thức của một lòng tốt không thể giải thích được.” Tuy nhiên, có thể có điều gì đó trong tình yêu cũ của Greene đối với sự nguy hiểm của các vùng biên giới bị cấm trong cách tiếp cận của anh:

Tôi không phủ nhận Chúa Kitô [hay niên đại của các sách Tin Mừng, bằng chứng lịch sử về sự hiện hữu của con người Giêsu Kitô]—tôi không tin Thiên Chúa. Nếu tôi đã từng bị thuyết phục về khả thể xa vời nhất của một sức mạnh tối cao, toàn năng và toàn tri, tôi nhận ra rằng không có gì sau đó dường như là không thể. Chính trên nền tảng của chủ nghĩa vô thần giáo điều mà tôi đã chiến đấu và chiến đấu hết mình. Nó giống như một cuộc đấu tranh sinh tồn bản thân. (38)

Cuối cùng, Cha Trollope - và Thiên Chúa - đã chiến thắng trong cuộc đấu tranh này, và Greene tin chắc vào sự thật về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về Điều Công Giáo, như Belloc và Chesterton (cả hai đều có ảnh hưởng sau này) đã nói. Trong cuộc sống sau này của mình, đôi khi Greene nói rằng anh đã trở lại đạo theo chân lý Công Giáo vào thời điểm này, nhưng những sự thật đó không chạm đến cảm xúc hay đời sống nội tâm của anh cho đến khi anh đến thăm Mexico và đối mặt với sự đàn áp Giáo hội ở đó bởi các thế lực và ý tưởng của thời hiện đại. Nhưng có một số mâu thuẫn trong giải trình này. Chắc chắn, sự chia rẽ cũ trong nội bộ vẫn tồn tại trong nhiều năm và cuối cùng có thể đã đưa anh ra ngoài Công Giáo. Tuy nhiên, anh mô tả lời thú nhận đầu tiên của mình bằng những thuật ngữ dường như liên quan đến cả trí lẫn tâm: Lần xưng tội chung đầu tiên, trước Bí tích Rửa tội có điều kiện và bao gồm toàn bộ cuộc sống trước đây của một con người, là một thử thách nhục nhã. Sau đó, chúng ta có thể trở nên cứng rắn với các công thức của Bí tích Xưng tội và hoài nghi về chính mình: chúng ta có thể chỉ có ý định nửa vời để giữ những lời hứa mà chúng ta đã hứa, cho đến khi liên tục thất bại hoặc hoàn cảnh cuộc sống riêng tư của chúng ta cuối cùng khiến chúng ta không thể thực hiện bất cứ lời hứa nào và nhiều người trong chúng ta từ bỏ Xưng tội và Rước lễ để gia nhập Quân đoàn Ngoại bang của Giáo hội và chiến đấu cho một kinh thành mà chúng ta không còn là công dân đầy đủ nữa. Nhưng trong lần Xưng tội đầu tiên, một người trở lại đạo thực sự tin vào lời hứa của chính mình. Tôi mang theo mình như những viên đá nặng vào một góc trống của Nhà thờ lớn, trời đã tối vào đầu giờ chiều, và nhân chứng duy nhất về Lễ rửa tội của tôi là một người phụ nữ đang lau bụi cho những chiếc ghế. Tôi lấy tên là Tôma - theo tên của Thánh Tôma người hay nghi ngờ chứ không phải Tôma Aquinô - và sau đó tôi tiếp tục đến văn phòng Tạp chí Nottingham và kết quả bóng đá và buổi tối ăn khoai tây chiên.

Tôi nhớ rất rõ bản chất cảm xúc của mình khi bước ra khỏi Nhà thờ Chính tòa: không có niềm vui nào cả, chỉ có một nỗi sợ hãi buồn bã. Tôi đã thực hiện động thái đầu tiên vì nghĩ đến cuộc hôn nhân tương lai của mình, nhưng bây giờ mặt đất đã như biến đi dưới chân tôi và tôi sợ không biết thủy triều sẽ đưa mình đến đâu. Ngay cả cuộc hôn nhân của tôi bây giờ dường như không chắc chắn với tôi. Giả sử tôi khám phá ra trong mình điều mà Cha Trollope đã từng khám phá ra, ước muốn trở thành một linh mục? Lúc đó, dường như nó không phải là điều bất khả. Chỉ bây giờ sau hơn bốn mươi năm, tôi mới có thể mỉm cười trước sự phi thực tại của nỗi sợ hãi của mình và đồng thời cảm thấy một nỗi tiếc nhớ về nó, vì tôi đã mất nhiều hơn là được khi nỗi sợ hãi đã thuộc về quá khứ không thể phục hồi. (39)

Có nhiều điều bị đè nén và chuyển qua đây. Trong những năm trước khi dường như anh bước ra ngoài Giáo hội, Greene đã được hưởng sự hướng dẫn của hai linh mục dòng Đa Minh lỗi lạc, Dom Bede Jarrett, O.P. (đột ngột qua đời khi còn rất trẻ) và Thomas Gilby, O.P., một người Anh theo học thuyết Tôma, cũng như quen biết xã hội với vô số người Công Giáo khác. Thực thế, anh khá hào phóng trong việc hỗ trợ các nghệ sĩ và nhà văn Công Giáo cũng như các hoạt động từ thiện—và dấn thân vào Giáo hội nhiều hơn là cái nhìn hồi tưởng có thể gợi ý.

Nhưng đức tin của anh liên tục bị tấn công bởi những đam mê phóng túng - trước hết là tình dục, nhưng cũng có những đam mê khác, đáng chú ý nhất là việc thích đi du lịch và việc gần như sợ hãi trước những điều nhàm chán của cuộc sống gia đình. Ngay cả sự tán tỉnh sau này của anh và hơn cả sự tán tỉnh với chủ nghĩa Mácxít và các chế độ chống phương Tây có thể có liên quan đến nhu cầu tâm lý luôn muốn được ở trên một loại biên giới nguy hiểm nào đó. Anh kết hôn với Vivien Dayrell-Browning (bản thân bà là một tân tòng Công Giáo) vào năm 1927, nhưng anh không phải là một người chồng chung thủy và bắt đầu những chuyến đi đến những nơi xa lạ và nguy hiểm—Liberia, Mexico, Việt Nam, Congo, Haiti, Cuba, và nhiều nơi khác—xem ra thích thú hơn cuộc sống ở nhà, bất cứ loại nhà nào. Trong A Sort of Life, anh so sánh những chuyến đi này với trò chơi rulét Nga được anh chơi để thoát khỏi sự buồn chán và đưa ra một cái nhìn sâu sắc về tâm lý mà anh nghĩ là phổ quát nhưng dường như điều đó hầu như chỉ áp dụng cho bản thân anh: “Khỏi nỗi kinh hoàng, người ta la hét thoát ra, nhưng nỗi sợ hãi có sức quyến rũ kỳ lạ. Nỗi sợ hãi và cảm giác về tình dục được liên kết với nhau trong một âm mưu bí mật.” (40) Cuối cùng, anh đã hoàn toàn bỏ rơi vợ mình vào năm 1948, mặc dù họ chưa bao giờ ly dị và chưa bao giờ tái hôn. Trong những năm 1950, như rõ ràng trong tiểu thuyết của anh, mối quan hệ của anh với Giáo hội vẫn tiếp tục, nhưng phần lớn theo cách riêng của anh, mối quan hệ này bắt đầu hướng tới những quan điểm hết sức lập dị về Thiên Chúa như là “Điểm Omega” và sự hợp tác giữa Giáo hội và Chủ nghĩa Cộng sản, nằm ngoài tính chính thống của Công Giáo, mà Jarrett hoặc Gilby có thể đã sửa chữa. Tuy nhiên, có một điều dường như không thay đổi là ý thức của Greene rằng chỉ có quan điểm tôn giáo về thế giới mới mang lại cho nhân cách con người, dù thực hay hư cấu, bất cứ chiều sâu nào. Trong thập niên tiếp theo, anh đã có thể dựa vào chiều kích tâm linh đó, tuy nhiên vẫn chưa ổn định.

Sự thật của cuộc tranh luận này có thể thấy rõ trong cuốn sách có lẽ sẽ vẫn được đọc nhiều nhất của Greene: The Power and the Glory. Nó lấy bối cảnh ở Mexico trong thời kỳ Giáo Hội bị đàn áp vào thập niên 1930, và Greene thú nhận rằng trải nghiệm ở Mexico này đã tạo thêm một tình cảm gắn bó với sự gắn bó trí thức trước đó của anh với Giáo Hội. Trong tiểu thuyết, một linh mục ở bang Tabasco đang bị săn lùng bởi chính quyền địa phương, đặc biệt là một sĩ quan cách mạng theo chủ nghĩa thuần túy và tàn nhẫn — một người duy lý tưởng theo cách giết người của chính mình — kẻ lên kế hoạch hành quyết ngài vì các linh mục đã bị đặt ngoài vòng pháp luật. Trong chuyến chạy trốn khỏi cái chết, vị linh mục đã phát hiện ra sự mong manh—và sự giả dối—của cuộc sống dễ dãi trước đây của mình trong Giáo hội. Ngài uống rất nhiều rượu, và trong một phút yếu lòng, ngài đã có một đứa con với một người phụ nữ mà ngài đã gặp. Nhưng ngài đã không chạy trốn hoặc bỏ đạo, như hầu hết các linh mục khác đã làm.

Điển hình cho một trong những tiểu thuyết nghiêm túc của Greene, nhân vật chính bị giằng xé giữa Thiên Chúa và ác quỷ—trong hình thức tuyệt vọng khi phát hiện ra điểm yếu của chính mình. Tuy nhiên, cũng là điển hình của thế giới Greene, có một loại tâm linh thuần khiết hơn xuất hiện từ chính những cám dỗ. Linh mục Montez, linh mục whisky, có thể cứu chuộc bản thân theo một cách nào đó, đầu tiên, bởi vì ở đầu câu chuyện, ngài sẵn sàng bỏ lỡ chuyến tàu đưa ngài ra khỏi Mexico và đến nơi an toàn để nghe lời thú tội của một người sắp chết, và một lần nữa, ở cuối cuốn tiểu thuyết, khi ngài làm điều tương tự với một người khác khi biết rằng rất có thể ngài sẽ bị bắt và bị bắn – đó chính xác là những gì sẽ xảy ra.

Vào thời điểm đó, Vatican không hài lòng. Trong phần giới thiệu sau này về cuốn tiểu thuyết, Greene kể lại việc Tổng Giám mục Westminster đã đọc cho ông một bản án của Văn phòng Tòa Thánh vì cuốn tiểu thuyết “ngược đời” và “xử lý những tình huống phi thường”. (41) Đức Piô XII sau đó đã nói với Greene rằng ngài không tán thành một số đặc điểm của vị linh mục whisky nhưng cuốn tiểu thuyết này có thể chấp nhận được. Vấn đề cuối cùng chỉ tan biến khi Greene từ chối viết lại nó. Tuy nhiên, những câu hỏi vẫn còn kéo dài về việc anh định làm gì với mối quan hệ chặt chẽ giữa tội lỗi và sự thánh thiện này. Một nhân vật không kém là Hans Urs von Balthasar nghĩ Greene là một nhà văn vĩ đại nhưng lại chùn bước trước cách anh công bố một “nền huyền nhiệm về tội lỗi”: “luận đề được đưa ra dưới cái cớ chân thành và chống chủ nghĩa pharisiêu rằng bản thân tội lỗi đó, khi được gỉa định một cách tự nguyện (trong liên đới với một tội nhân khác), chứa đựng yếu tố cứu chuộc, mà ngày nay có lẽ là yếu tố quyết định; điều này hiển nhiên và nhất thiết mâu thuẫn với ơn cứu chuộc thực sự.” (42)

Tất nhiên, quan điểm của Von Balthasar là đúng. Chúng ta không đến với sự cứu chuộc qua tội lỗi. Nhưng điều này có thể không nên áp dụng một cách chính xác vào công trình của Greene. Cha Montez phạm tội vì yếu đuối và sợ hãi, chứ không phải vì tình liên đới. Tình liên đới đi kèm với việc ngài nhìn nhận rằng mình là một kẻ tội lỗi, không phải là một người đặc biệt tách biệt khỏi những người khác, mặc dù chức vụ linh mục của ngài là một điều gì đó đặc biệt và thánh thiêng. Mối nguy hiểm thực sự mà von Balthasar đang cố gắng tập trung vào liên quan đến độc giả, những người có thể tin rằng chỉ khi phạm tội và chấp nhận rủi ro phạm tội, họ mới có thể hiểu đầy đủ về đời sống Kitô hữu. Đó là một điểm đáng được công nhận—và bác bỏ. Tuy nhiên, hầu như mọi Kitô hữu đều có kinh nghiệm rằng sự khiêm nhường và hiểu biết về bản thân thường đến với chúng ta qua những thất bại của mình.

Trong tất cả các tiểu thuyết thuộc “thời kỳ vĩ đại” của Greene, có lẽ chỉ có Scobie trong The Heart of the Matter – cuốn tiểu thuyết mà nhiều người coi là hay nhất của Greene – gần giống với mô tả của von Balthasar về vấn đề thần học. Scobie là một sĩ quan cảnh sát người Anh ở Tây Phi, được biết đến với sự chính trực và công bằng đối với tất cả các nhóm chủng tộc và sắc tộc trong thẩm quyền của mình. Anh kết hôn với một người phụ nữ kém hấp dẫn, nhõng nhẽo và vô cùng bất hạnh và cảm thấy tội lỗi vì tin rằng lời thề trong hôn nhân đã khiến anh phải chịu trách nhiệm về sự bất hạnh của nàng. Đầu tiên, anh tự thỏa hiệp bằng cách vay tiền từ một người Syria mờ ám để đưa nàng thoát khỏi hoàn cảnh ảm đạm để bắt đầu cuộc sống mới ở Nam Phi. Nhưng khi nàng vắng mặt, anh bắt đầu ngoại tình với một phụ nữ trẻ hơn ba mươi tuổi, người đã sống sót sau một thử thách trên biển mà nàng đã mất chồng sau khi con tàu của nàng bị tàu ngầm Đức Quốc xã đánh chìm.

Ở phần đầu của Thần kich, Dante nói rằng ông thấy mình đang ở trong một khu rừng tối nhưng không biết làm thế nào mà mình đến được đó, “Tôi đã rất buồn ngủ khi tôi từ bỏ con đường chân chính” (Inf. I, 11-12). Đó là một kinh nghiệm chung của Kitô hữu. Scobie hiểu rõ hơn một chút khi nhìn lại, nhưng anh bắt đầu lạc đề vì cảm thấy thương hại cho người phụ nữ trẻ tội nghiệp và bắt đầu đến thăm nàng, như anh thường làm với những người khác trong làng, với ý định nhân ái. Hơn nữa, cả hai đều nghĩ rằng sự khác biệt về tuổi tác của họ sẽ loại bỏ những nghi vấn về chuyện tình cảm và tạo điều kiện cho một tình bạn trong sáng. Nhưng sau một sự cố, họ hôn nhau: “Điều mà cả hai từng nghĩ là an toàn đã được chứng minh là sự ngụy trang của một kẻ thù hoạt động dưới hình thức tình bạn, lòng tin và lòng thương hại.” (43) Có vẻ như mối quan hệ đặc biệt này đã bị nhiều độc giả, bao gồm cả von Balthasar, hiểu sai như một kiểu biện minh cho tội lỗi dưới vỏ bọc của sự thiện cảm. Tuy nhiên, câu vừa được trích dẫn cho thấy rõ rằng ma quỷ có thể hoạt động ngay cả thông qua “tình bạn, sự tin tưởng, lòng thương hại”. Nhưng không có chỗ nào trong The Heart of the Matter mà Greene tìm cách bào chữa cho lỗi lầm của Scobie. Trên thực tế, sau đó anh nói rằng anh đã viết về “sự hư hỏng do lòng thương hại” của Scobie - lòng thương hại và lòng trắc ẩn thực sự là những điều rất khác nhau. Và xuyên suốt cuốn tiểu thuyết có những dấu hiệu cho thấy sự tuyệt vọng của Scobie và sau đó việc tự tử có thể là điều mà một Kitô hữu có thể hiểu và học hỏi, nhưng—không có tình tiết giảm nhẹ và lòng thương xót của Thiên Chúa—chúng vẫn là một tội lỗi nghiêm trọng và có lẽ không thể tha thứ.

Tuy nhiên, von Balthasar đã nhận ra điều gì đó trong nhận xét của mình về “nền huyền nhiệm tội lỗi” của Greene. Greene dường như có xu hướng đặt các nhân vật của mình vào những tình huống tội lỗi hoặc gần như tuyệt vọng bởi vì chỉ trong những hoàn cảnh ngặt nghèo đó, một số chân lý tâm linh nhất định mới xuất hiện từ những phạm trù hàng ngày. Nhưng hầu như anh không cô đơn và trên thực tế, anh đang ở trong một bầu bạn tốt lành (ví dụ như Dante)... Điều mà một số độc giả thần học và triết học khắt khe hơn có thể phản đối là không phải lúc nào cũng có cách giải quyết “tốt” cho những tình huống này. Cha Montez bị xử bắn, giống như Cha Miguel Pro, một vị thánh ngoài đời thực, và ngài khiêm nhường trước Thiên Chúa và các tội nhân, mặc dù chúng ta không biết liệu sự ăn năn của ngài đã đủ chưa. Nhưng một lần nữa, dù sao chúng ta cũng sẽ không biết, bất kể Greene hay bất cứ tiểu thuyết gia nào khác nói gì về một nhân vật, vì chúng ta không biết liệu có ai, ngoài các vị thánh đã được phong thánh, được cứu rỗi hay bị nguyền rủa.

Tương tự như vậy, mặc dù việc Scobie tự sát không hoàn toàn do hoàn cảnh của anh ta, thậm chí không phải vì sự phạm thánh mà anh ta đã phạm khi rước lễ trong tình trạng tội lỗi, Greene có thể cho thấy một người đàn ông đang trong tình trạng điên loạn — như chính anh đã gần như thế khi kết hôn với hai nhân tình. Trong một khoảnh khắc rõ ràng, Scobie nghe thấy một giọng nói đáng lưu ý khi anh ta sắp vi phạm hành vi:

“Ngươi nói ngươi yêu ta, vậy mà ngươi lại làm điều này với ta—cướp ta khỏi ngươi mãi mãi. Ta tạo ra ngươi vì tình yêu. Ta đã khóc những giọt nước mắt của ngươi. Ta đã cứu ngươi khỏi nhiều điều hơn những gì ngươi từng biết; ta đã gieo vào ngươi niềm khao khát hòa bình này chỉ để một ngày nào đó ta có thể thỏa mãn niềm khao khát của ngươi và ngắm nhìn hạnh phúc của ngươi. Và bây giờ ngươi đẩy ta đi, ngươi đặt ta ra khỏi tầm với của ngươi. Không có chữ in hoa để ngăn cách chúng ta khi chúng ta nói chuyện với nhau. Ta không phải là Ngài mà chỉ là ngươi, khi ngươi nói chuyện với ta; ta khiêm nhường như bao kẻ ăn xin khác. Há ngươi không thể tin tưởng ta như ngươi tin tưởng một con chó trung thành? Ta đã trung thành với ngươi trong hai ngàn năm. Tất cả những gì ngươi phải làm bây giờ là rung chuông, đi vào hộp, xưng tội.... Sự ăn năn đã ở đó, đang căng thẳng trong lòng ngươi. Ngươi không thiếu sự hối cải, chỉ cần một vài hành động đơn giản.

Scobie trả lời, có lẽ thẳng thắn hơn hầu hết chúng ta, “Không. Tôi không tin tưởng Ngài. Tôi chưa bao giờ tin tưởng Ngài.... Tôi không thể đổ trách nhiệm của mình lên Ngài.” (44)

Greene trích dẫn Charles Péguy như một lời kết trong The Heart of the Matter: “Kẻ tội lỗi nằm ở trung tâm của Kitô giáo... Không ai có thẩm quyền như kẻ có tội trong các vụ việc Kitô giáo. Không ai, ngoại trừ vị thánh.” Một số độc giả nghĩ rằng viên cảnh sát đáng kính Scobie trong cuốn tiểu thuyết đó có ý nghĩa như một bức chân dung của một vị thánh. Nhưng có lẽ điều xảy ra ở đây là niềm tự hào - đó chắc chắn là đánh giá của chính Greene về Scobie - và một cái nhìn sâu sắc đáng lo ngại về loại ám ảnh và bối rối, ngay cả khi đối mặt với sự thật một cách bình tĩnh, điều này thực tế thường đi kèm với tội lỗi. Khi Greene đối mặt với những lời chỉ trích, “Tự tử là kết cục không thể tránh khỏi của Scobie; động cơ cụ thể khiến anh ta tự tử, để cứu cả Thiên Chúa khỏi chính anh ta, là bước ngoặt cuối cùng của lòng kiêu hãnh quá mức của anh ta. Có lẽ Scobie nên là chủ đề cho một vở hài kịch độc ác hơn là bi kịch.” (45)

Những cái nhìn thông sáng giống như thế xuất hiện trong các tác phẩm khác. Không cắt đứt cuộc hôn nhân hay mối tình với người tình lâu năm Dorothy Glover, vào năm 1946, Greene bắt đầu ngoại tình đồng thời với một người trở lại đạo Công Giáo xinh đẹp tuyệt vời, Catherine Walston (anh là người đỡ đầu cho nàng khi nàng trở lại Công Giáo lúc đã trưởng thành). Anh đã dành tặng The End of the Affair cho nàng. Trong cuốn tiểu thuyết đó, một nhà văn ngoại tình với vợ của một người hàng xóm. Anh và người hàng xóm có một tình bạn kỳ lạ, Greene và chồng của Catherine cũng vậy. Khi một quả bom của Đức đánh trúng tòa nhà nơi những người yêu nhau đang gặp nhau trong Thế chiến thứ hai, người phụ nữ đã tự nhiên cầu nguyện với Thiên Chúa rằng nàng sẽ thay đổi cuộc sống của mình nếu người yêu của nàng không chết. Một cách mầu nhiệm – lạ lùng? - anh không chết. Nhưng điều này tạo ra một cuộc giằng co vĩ đại trong tâm hồn của một số nhân vật về những yêu sách tương đối của tình yêu con người và thần thiêng. Và hận thù. Nhà văn nói với chúng ta ở trang đầu tiên, "Đây là một kỷ lục về sự căm ghét nhiều hơn là tình yêu." Và ở trang cuối cùng, tình nhân của anh đã chết và bác bỏ anh bằng lời thề của nàng, anh nói với chúng ta, “Tôi đã viết ngay từ đầu rằng đây là một kỷ lục về sự căm ghét... Tôi tìm thấy một lời cầu nguyện dường như phù hợp với tâm thái mùa đông. Ôi lạy Thiên Chúa, Ngài đã làm đủ rồi. Ngài đã cướp của tôi đủ rồi. Tôi quá mệt mỏi và già nua để học cách yêu. Hãy để tôi một mình mãi mãi.” (46) Ảm đạm, nhưng một lần nữa, có lẽ là một lời thú nhận trung thực về việc có bao nhiêu người nhìn vào Thiên Chúa nhưng sợ thừa nhận.

The End of the Affair là một thành công đầy tai tiếng, đến nỗi một số người Công Giáo ưa đùa dỡn đã phàn nàn rằng nó gây ấn tượng cho rằng Chúa Kitô đã nói: “Nếu ngươi yêu ta, hãy vi phạm các điều răn của ta.” Greene và Walston chắc chắn đang bận làm việc đó. Greene bắt đầu hợp lý hóa vụ việc, thậm chí còn nhận được lời khuyên từ các linh mục cấp tiến rằng việc đi xưng tội nhiều lần là điều đúng, biết rằng anh sẽ lập tức nối lại liên lạc. Ý thức trước đó của Greene về sự căng thẳng gay gắt giữa các xung lực trần thế và thiên đàng dần dần chuyển sang một đạo Công Giáo lỏng lẻo hơn nhiều. Sự thiếu sót về tính cách này đã làm suy yếu nghệ thuật của anh, như chính anh đã dự đoán. Một trong những luận điểm trung tâm của anh trong tư cách một nhà phê bình văn học là sau thế kỷ XVII, tiểu thuyết đã thoái hóa vì thiếu nghiêm túc về mặt tôn giáo. Chỉ đến thế kỷ XIX, khi niềm tin tôn giáo chính thống xuất hiện trở lại, thì sự viên mãn và chiều sâu của linh hồn con người mới trở lại với các nhà văn. Đối với tất cả sự mơ hồ của họ về tôn giáo, Dickens, Hardy, Conrad, Lawrence và James đều được hưởng lợi từ nó. Ngược lại, anh lập luận, các nhân vật của Virginia Woolf và E. M. Forster “lang thang như những biểu tượng bằng bìa cứng trong một thế giới mỏng như tờ giấy”. (47)

Chính trị bắt đầu thay thế bi kịch linh hồn trong các tác phẩm của Greene từ những năm 1950. The Quiet American [Người Mỹ trầm lặng] (1955) lấy bối cảnh ở Việt Nam chìm trong chiến tranh và, mặc dù không hoàn toàn chống Mỹ như người ta thường nghĩ, nhưng báo trước sự say mê ngày càng tăng đối với Chủ nghĩa cộng sản, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Our Man in Havana (1958) chế nhạo thế giới gián điệp. Tuy nhiên, đằng sau sự “giải trí” này ẩn chứa một cảm thức tiên đoán về các lực lượng tình báo mờ ám của Anh, Mỹ và các nước khác. Greene mớm lời cho sự ra đời của Fidel Castro, người mà sau này ông sẽ bảo vệ. Cuốn tiểu thuyết thực sự quan trọng duy nhất khác của Greene, A Burnt-Out Case, lấy bối cảnh một trại phung cùi ở Châu Phi, nơi kiến trúc sư Querry (nghĩa là: chất vấn) đã bỏ trốn sau thất bại trong tài năng thiết kế nhà thờ của mình. Không tin vào điều gì, anh cố gắng giúp đỡ các bệnh nhân và bị giới truyền thông châu Âu hiểu lầm như một vị thánh. Có lẽ Greene cảm thấy mình không xứng đáng được tôn kính. A Burnt-Out Case là hơi thở cuối cùng của một tài năng vĩ đại—và Evelyn Waugh nói với Greene “Tôi không nghĩ bạn có thể đổ lỗi cho những người đọc cuốn sách này như một công khai từ bỏ đức tin” (48). Các tiểu thuyết sau này—The Honorar y Consul (1973), The Human Factor (1978), Monsieur Quixote (1982) —tất cả đều thiếu chiều sâu tâm linh và pháo hoa cảm xúc của Greene cổ điển. Chúng sa vào một ý thức hệ và cử chỉ tẻ nhạt vô hồn và hướng tới một nền thần học giải phóng mơ hồ.

Bản thân Greene, bình thường là một người tự biết mình khá cao, phản bác rằng anh đã tạo ra một bước ngoặt lớn với A Burnt-Out Case, nhưng thừa nhận rằng anh cảm thấy cuộc đời nhà văn của mình đã kết thúc với cuốn sách. Trong tập thứ hai của cuốn tự truyện của mình, anh đã lập luận - trực tiếp chống lại Waugh - rằng một người Công Giáo có thể viết một cuốn tiểu thuyết về một nhân vật mất niềm tin, trong khi tác giả vẫn chưa mất niềm tin. Nhưng tình hình không hoàn toàn đơn giản như vậy, và anh hẳn đã biết điều đó. Những căng thẳng lâu dài giữa những gì anh tin tưởng và những gì anh thực hành - đặc biệt là những bất thường về tình dục và nhiều tình nhân (đôi khi đồng thời) - chắc chắn sẽ gây ra hậu quả. Khi ở thế cân bằng khá ngang nhau, chúng dẫn đến một số tác phẩm đáng chú ý. Và một trong những lý do khiến người Công Giáo bị thu hút bởi chúng là vì họ cũng có thể đồng nhất với một đức tin, bị bao vây bởi những nghi ngờ và phản bác trong thế giới hiện đại, vẫn tiếp tục tin tưởng. Thông thường, khi một người Công Giáo trưởng thành—và nếu anh ta thực sự vẫn là người Công Giáo—những khó khăn và thử thách giảm dần và được giải quyết trong một loại chấp nhận, một điều có thể vẫn đòi hỏi nhiều tìm kiếm. Greene đã chọn một con đường chung khác — tiếp tục lối sống của mình và ngừng đi xưng tội, đồng thời từ từ xác định lại Đạo Công Giáo theo vô số cách, điều mà anh biết đối với một người bạn như Evelyn Waugh rõ ràng là “dị giáo”. Và khi rời xa Giáo hội trong sự viên mãn của Giáo hội, đặc biệt là thứ mà anh chế giễu như một kiểu tự mãn “ngoại ô”, anh rời xa nhiều thứ tạo nên cuộc sống bình thường của con người trong các xã hội tự do ở phương Tây.

Mặt này của Greene đã khiến người Công Giáo cũng như người không Công Giáo bối rối. Tại M16, anh là đồng nghiệp của kẻ phản bội khét tiếng người Anh Kim Philby, người đã chuyển các bí mật cho Liên Xô và cuối cùng kết thúc ở đó khi các hoạt động của anh bị phát hiện. Greene đã có quan điểm hơi chống Mỹ trong cuốn tiểu thuyết The Quiet American năm 1955 của mình, tuy nhiên, như thường lệ, câu chuyện bị phức tạp bởi tình dục và sự ghen tuông. Và trong The Human Factor, một cuốn tiểu thuyết sau này (1978), ông dường như đã từ bỏ mọi niềm tin tôn giáo và thậm chí bất cứ niềm tin nào vào các định chế phương Tây so với các thể chế Cộng sản. Anh sẽ lấy lại một số quan điểm Công Giáo không chính thống thông qua sự can thiệp của một linh mục người Tây Ban Nha, Leopoldo Durân, người đã say mê sự dị thường của Greene nhưng dường như cũng đã tranh luận với anh về thiện cảm đối với Cộng sản của anh.

Thí dụ, trong một bài phát biểu năm 1987 tại Moscow, Greene tuyên bố đã quan sát thấy một điều mới: “Chúng ta đang chiến đấu - những người Công Giáo Rôma đang chiến đấu - cùng với những người Cộng sản, và cùng làm việc với những người Cộng sản. Chúng ta đang cùng nhau chiến đấu chống lại Đội tử thần ở El Salvador. Chúng ta đang cùng nhau chiến đấu chống lại Contras ở Nicaragua. Chúng ta đang cùng nhau chiến đấu chống lại Tướng Pinochet ở Chile.” (49) Mikhail Gorbachev, người có mặt tại bài phát biểu, chỉ còn hai năm nữa là có thể dập tắt những người Cộng sản Latinh, những người Công Giáo có thiện cảm với họ, và Liên Xô của chính ông ta. Greene kết luận: “thậm chí tôi còn có một giấc mơ, thưa ngài Tổng bí thư, rằng có lẽ một ngày nào đó trước khi tôi chết, tôi sẽ biết rằng có một Đại sứ Liên Xô đang đưa ra lời khuyên hữu ích tại Vatican.” (50)

W. J. West, một trong những người viết tiểu sử của Greene, đưa ra khả thể cho rằng Greene có thể đã làm việc như một điệp viên hai mang với Tình báo Anh suốt thời gian qua, tạo ấn tượng có thiện cảm cánh tả vì mục đích thu thập thông tin. Nhưng điều đó dường như không thể xảy ra ngay trên màn trình diễn của chính West. Chẳng hạn, ngay trước khi Ronald Reagan tái đắc cử vào năm 1984, Greene đã nói với Cha Durân rằng, nếu anh chết, anh muốn mọi người biết rằng anh sẽ trở thành một người Cộng sản nếu Reagan trở lại nhiệm sở. Cũng trong khoảng thời gian đó, Greene nói với Malcolm Muggeridge rằng Nga chỉ phá hủy phần xác của Giáo hội, trong khi Mỹ phá hủy linh hồn của Giáo hội. (Greene đã châm biếm Muggeridge, người đã trở thành một nhà biện hộ Công Giáo sau nhiều năm theo chủ nghĩa vô thần và vô luân, ngụy trang như một trong những nhân vật của The Human Factor.) Norman Sherry, người viết tiểu sử được ủy quyền của Greene và là một người bạn, dù sao cũng nhận xét về những diễn biến muộn màng này trong sự hoang mang tột độ, “Làm sao đầu óc tinh tế của anh có thể tham gia vào những trò điên rồ trí thức như vậy?” (51)

Cuối cùng, nó là sự trở ngại. Cái nhìn sâu sắc của Greene về linh hồn con người có thể sâu sắc như bất cứ người đương thời nào. Nhưng quỹ đạo của anh trình bày một câu chuyện đầy cảnh cáo. Trước khi chủ nghĩa Cộng sản bắt đầu tan rã, Greene đã công khai ngưỡng mộ những người Công Giáo Ba Lan hợp tác với chế độ Cộng sản trong nhóm PAX. Những đánh giá sai lầm về chính trị như vậy, cùng với mong muốn tự bào chữa cho tội lỗi của mình, đã khiến anh không có thiện cảm với tầm nhìn về con người được Đức Gioan Phaolô II đề cao. Không có gì ngạc nhiên khi Greene mô tả quan điểm của vị giáo hoàng này về các vấn đề tình dục - có thể nói, giáo huấn tiêu chuẩn của Công Giáo - là "thiếu trí tưởng tượng và không khoan nhân". Điều này nói về một Giáo Hoàng vốn là người đã phát triển nền “thần học thân xác” ư? Những sai sót trong tính cách của Greene và những tưởng tượng về Chiến tranh Lạnh đã dẫn đến sự tàn tạ của một năng khiếu tuyệt vời. Anh đã đi từ một tiểu thuyết gia hàng đầu về linh hồn bằng tiếng Anh thành một người tạo điều kiện cho những ánh sáng muộn hơn và kém hơn, những người để cho sự thèm muốn và oán giận của họ cai trị tài năng của họ. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ ở vị thế tốt hơn để sàng lúa mì từ vỏ trấu trong tác phẩm phong phú của Greene. Tuy nhiên, hiện tại, anh là một lời nhắc nhở đáng buồn về nhiều điều không ổn trong Đạo Công Giáo—từ những sức mạnh to lớn và công trình giàu trí tưởng tượng chuyển qua tính không hợp lý tương đối—trong hậu bán thế kỷ XX.

Kỳ tới: Cuốn sách hay nhất của thiên niên kỷ, J. R. R. Tolkien