WASHINGTON (TH) - Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ hôm Thứ Ba 28 Tháng Hai chấm dứt cuộc tranh tụng kéo dài đã hai thập niên liên quan đến việc biểu tình trước cửa những bệnh viện và phòng mạch phá thai, xác định rằng luật chống tống tiền và chống băng nhóm tội ác không thể được sử dụng để ngăn cấm việc biểu tình.
Phán quyết thông qua với 8 phiếu thuận và 0 phiếu chống (tân Thẩm Phán Samuel Salito đã không tham dự vào cuộc bỏ phiếu), chấm dứt một cuộc tranh tụng mà Tòa Kháng Án Hoa Kỳ khu vực 7 đã kéo dài dù rằng đã có phán quyết năm 2003 của Tối Cao Pháp Viện ra lệnh tháo gỡ việc ngăn cấm trên toàn quốc đối với những nhóm chống phá thai do ông Joseph Scheidler và những người khác cầm đầu.
Các nhóm chống phá thai đã đệ đơn chống án sau khi Tòa Thượng Thẩm tìm cách xác định xem lệnh chống biểu tình có thể được dùng trong trường hợp những người biểu tình có hành vi hăm dọa hay không.
Trong án lệnh công bố hôm Thứ Ba, Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện Stephen Breyer viết rằng quốc hội không có ý định thành lập “một tội danh riêng rẽ liên quan đến hành vi bạo động - a freestanding physical violence offense” khi thông qua luật liên bang chống cưỡng đoạt (federal extortion law) thường được gọi là đạo luật Hobbs (Hobbs Act).
Thay vào đó, Thẩm Phán Breyer xác định rằng quốc hội đã có biện pháp giải quyết trường hợp bạo động bên ngoài những địa điểm cung cấp dịch vụ phá thai vào năm 1994 khi thông qua đạo luật mang tên “Ðạo luật tự do ra vào cổng dưỡng đường - Freedom of Access to Clinic Entrances Act” vốn đặt ra những quy luật rõ ràng cho những cuộc biểu tình phản đối.
Các nhân vật tranh đấu cho những vấn đề xã hội và tổ chức lao động AFL-CIO đã bày tỏ sự ủng hộ những người biểu tình chống phá thai trong trường hợp này vì cho rằng những vụ kiện tụng và lệnh cấm dựa trên luật chống cưỡng đoạt của liên bang có thể ngăn trở những nỗ lực của họ nhằm thay đổi những chính sách công cộng hay vận động để đòi hỏi lương cao và điều kiện làm việc tốt đẹp hơn.
Cuộc tranh tụng bắt đầu từ năm 1986 khi Tổ Chức Phụ Nữ Toàn Quốc (National Organization of Women - NOW) đưa đơn kiện những phương cách biểu tình phản đối của thành phần chống phá thai mang tên “Pro-Life Action Network” nhằm ngăn chặn không cho phụ nữ vào cửa những trung tâm phá thai.
Chiến lược của NOW được coi là mới lạ vào thời điểm đó, vì đã sử dụng phần hộ (thay vì hình sự) của đạo luật chống băng nhóm tội phạm (Racketeer Influenced and Corrupt Organizations Act - RICO) có từ năm 1970 cũng như đạo luật Hobbs được ban hành đã 55 năm. Những người vi phạm đã bị phạt tiền rất nặng nề khiến một số tổ chức chống phá thai phải khai phá sản.
Một thẩm phán Tòa Liên Bang đã ra lệnh cấm biểu tình chống phá thai sau một bồi thẩm đoàn ở Chicago cho rằng những người biểu tình đã vi phạm RICO khi hành động ngăn cản sự hoạt động của địa điểm phá thai, đe dọa bác sĩ, tấn công bệnh nhân và gây hư hại cho tài sản nơi này.
Tuy nhiên Tối Cao Pháp Viện đã bác bỏ lệnh cấm này vào năm 2003, cho rằng luật chống cưỡng đoạt không thể được dùng chống lại người biểu tình vì họ không “chiếm đoạt tài sản bất hợp pháp” từ những phụ nữ tìm cách vào trong những nơi cung cấp dịch vụ phá thai.
Phán quyết thông qua với 8 phiếu thuận và 0 phiếu chống (tân Thẩm Phán Samuel Salito đã không tham dự vào cuộc bỏ phiếu), chấm dứt một cuộc tranh tụng mà Tòa Kháng Án Hoa Kỳ khu vực 7 đã kéo dài dù rằng đã có phán quyết năm 2003 của Tối Cao Pháp Viện ra lệnh tháo gỡ việc ngăn cấm trên toàn quốc đối với những nhóm chống phá thai do ông Joseph Scheidler và những người khác cầm đầu.
Các nhóm chống phá thai đã đệ đơn chống án sau khi Tòa Thượng Thẩm tìm cách xác định xem lệnh chống biểu tình có thể được dùng trong trường hợp những người biểu tình có hành vi hăm dọa hay không.
Trong án lệnh công bố hôm Thứ Ba, Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện Stephen Breyer viết rằng quốc hội không có ý định thành lập “một tội danh riêng rẽ liên quan đến hành vi bạo động - a freestanding physical violence offense” khi thông qua luật liên bang chống cưỡng đoạt (federal extortion law) thường được gọi là đạo luật Hobbs (Hobbs Act).
Thay vào đó, Thẩm Phán Breyer xác định rằng quốc hội đã có biện pháp giải quyết trường hợp bạo động bên ngoài những địa điểm cung cấp dịch vụ phá thai vào năm 1994 khi thông qua đạo luật mang tên “Ðạo luật tự do ra vào cổng dưỡng đường - Freedom of Access to Clinic Entrances Act” vốn đặt ra những quy luật rõ ràng cho những cuộc biểu tình phản đối.
Các nhân vật tranh đấu cho những vấn đề xã hội và tổ chức lao động AFL-CIO đã bày tỏ sự ủng hộ những người biểu tình chống phá thai trong trường hợp này vì cho rằng những vụ kiện tụng và lệnh cấm dựa trên luật chống cưỡng đoạt của liên bang có thể ngăn trở những nỗ lực của họ nhằm thay đổi những chính sách công cộng hay vận động để đòi hỏi lương cao và điều kiện làm việc tốt đẹp hơn.
Cuộc tranh tụng bắt đầu từ năm 1986 khi Tổ Chức Phụ Nữ Toàn Quốc (National Organization of Women - NOW) đưa đơn kiện những phương cách biểu tình phản đối của thành phần chống phá thai mang tên “Pro-Life Action Network” nhằm ngăn chặn không cho phụ nữ vào cửa những trung tâm phá thai.
Chiến lược của NOW được coi là mới lạ vào thời điểm đó, vì đã sử dụng phần hộ (thay vì hình sự) của đạo luật chống băng nhóm tội phạm (Racketeer Influenced and Corrupt Organizations Act - RICO) có từ năm 1970 cũng như đạo luật Hobbs được ban hành đã 55 năm. Những người vi phạm đã bị phạt tiền rất nặng nề khiến một số tổ chức chống phá thai phải khai phá sản.
Một thẩm phán Tòa Liên Bang đã ra lệnh cấm biểu tình chống phá thai sau một bồi thẩm đoàn ở Chicago cho rằng những người biểu tình đã vi phạm RICO khi hành động ngăn cản sự hoạt động của địa điểm phá thai, đe dọa bác sĩ, tấn công bệnh nhân và gây hư hại cho tài sản nơi này.
Tuy nhiên Tối Cao Pháp Viện đã bác bỏ lệnh cấm này vào năm 2003, cho rằng luật chống cưỡng đoạt không thể được dùng chống lại người biểu tình vì họ không “chiếm đoạt tài sản bất hợp pháp” từ những phụ nữ tìm cách vào trong những nơi cung cấp dịch vụ phá thai.