Thượng Hội Đồng về Gia Đình năm 2015 sắp sửa nhóm họp vào Mùa Thu này. Văn Phòng Tổng Thư Ký của Thượng Hội Đồng, ngày 23 tháng 6 vừa qua đã công bố Tài Liệu Làm Việc. Bầu không khí chuẩn bị vì thế càng lúc càng sôi động. Thực ra, bầu không khí ấy đã sôi động ngay từ trước đó. Thực vậy, ngày 18 tháng 6, 2015, Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình đã cho đăng tải bài tham luận của Đức Hồng Y Ennio Antonelli, nguyên chủ tịch của Hội Đồng, nhiệm kỳ 2008-2012. Tham luận này cực lực chỉ trích đề xuất cho phép người Công Giáo ly dị và tái hôn dân sự được rước lễ. Nó cho biết nhiều điều rất hữu ích về “luật tiệm tiến” là điều Đức TGM Bruno Forte, Thư Ký Đặc Biệt của Thượng Hội Đồng, coi là chìa khóa để hiểu Tài Liệu Làm Viêc. Tựa của tham luận là “Cuộc Khủng Hoảng Hôn Nhân và Phép Thánh Thể”.
Đào tạo những gia đình Kitô Giáo gương mẫu
Trong phần nhập đề, Đức Hồng Y Antonelli tin rằng điều khẩn thiết chính của mục tiêu mục vụ hiện nay là đào tạo các gia đình Kitô Giáo gương mẫu, có khả năng làm chứng một cách cụ thể rằng hôn nhân Kitô Giáo là điều đẹp đẽ và có thể thể hiện trọn vẹn được.
Theo ngài, trong bối cảnh văn hóa hậu Kitô Giáo ngày nay, các trách vụ cần thiết đối với việc chăm sóc mục vụ các gia đình phải như sau:
1. Giáo dục trẻ em và thanh thiếu niên trong lý thuyết và thực hành về tình yêu theo Kitô Giáo, hiểu như việc hiến mình cho người khác và như một hiệp thông biết kính trọng các dị biệt;
2. Chuẩn bị hôn nhân kỹ càng cho các cặp đính hôn, để hôn nhân thành sự và sinh hoa trái, bằng những cuộc hành trình được xén tỉa phù hợp với tình huống tâm linh, văn hóa và xã hội khác nhau;
3. Tiếp tục đào luyện các cặp vợ chồng, nhất là các cặp vợ chồng trẻ, bằng các buổi gặp gỡ định kỳ xen kẽ vào các chương trình mục vụ hàng năm, do các tác nhân xứng hợp trình bầy (thí dụ các cặp vợ chồng có kinh nghiệm), và lưu tâm thích đáng tới các đóng góp của các cộng đoàn nhỏ, các phong trào và hiệp hội.
Nói thế rồi, Đức HY Antonelli thú nhận rằng chủ đề mà ngài quan tâm vừa khó khăn vừa quan trọng, đó là khả thể cho phép người ly dị tái hôn được rước lễ. Ngài muốn được góp một số suy nghĩ về chủ đề này để chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng sắp tới, với hai thái độ từng được Đức Phanxicô khuyến khích đó là parrhesia (mạnh dạn) và khiêm nhường: thành thực phát biểu tư tưởng và lắng nghe người khác một cách kính trọng và sẵn sàng tiếp nhận sự sửa sai huynh đệ hướng tới hồi tâm. Chỉ có thế, ta mới mong phong phú hóa cho nhau và cùng nhau hướng tới sự chân và sự thiện.
Ngài muốn đề cập tới các vấn đề sau đây: bản chất gắn bó và hoàn hảo của các thực hành mục vụ đã được phép từ trước tới nay; các thay đổi được đề nghị và các luận bác đối với chúng; các yếu điểm của điều gọi là Luật Tiệm Tiến (law of gradualness) và các đề nghị nhằm đưa ra các tiêu chuẩn tổng quát đối với việc cho phép người ly dị tái hôn được rước lễ; tín lý đã được xác định vững vàng liên quan tới tính bất khả tiêu của hôn nhân Kitô giáo; tình yêu dâng hiến trong tương quan với tính thành sự của hôn nhân; phúc âm hóa chân chính cần thiết cho một việc tông đồ truyền giáo có hiệu quả.
Các quan điểm tín lý và kỷ luật hiện hành
Do ý muốn của Chúa Kitô, hôn nhân bí tích, một khi đã thành sự và hoàn hợp, thì bất khả tiêu. Mọi phân ly giữa vợ chồng đều chống lại ý muốn của Người. Bất cứ cuộc kết hợp mới nào của một người phối ngẫu ly thân đều bất hợp pháp và tạo nên một bất trật tự nặng nề và tồn lưu về luân lý; nó tạo ra một tình trạng mâu thuẫn khách quan với giao ước phu phụ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, đã được biểu tượng và thể hiện qua Phép Thánh Thể. Bởi thế, người ly dị và tái hôn không thể được phép rước lễ, trước nhất, bởi lý do thần học và sau đó, bởi trật tự mục vụ. “Giáo Hội tái khẳng định thực hành của mình, một thực hành đặt căn bản trên Sách Thánh, không cho phép những người ly dị tái hôn được rước Thánh Thể. Họ không thể được phép như thế do sự kiện: tình trạng và điều kiện sống của họ mâu thuẫn khách quan với sự kết hợp tình yêu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, một sự kết hợp vốn được biểu tượng và thể hiện qua Phép Thánh Thể. Ngoài điều đó ra, còn một lý do mục vụ nữa là: nếu những người này được phép rước lễ, các tín hữu sẽ bị dẫn vào lầm lạc và lẫn lộn về giáo huấn của Giáo Hội đối với tính bất khả tiêu của hôn nhân” (Familiaris Consortio, 84).
Việc không cho phép rước lễ này sẽ tiếp diễn suốt thời kỳ sống cuộc hôn nhân bất hợp pháp. “Nếu các người ly dị tái hôn theo dân luật, họ sẽ rơi vào một tình huống mâu thuẫn khách quan với lề luật Thiên Chúa. Thành thử, họ không thể rước lễ bao lâu tình huống này còn kéo dài” (Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo [SGLCGHCG],số 1650). Việc không cho phép này không kỳ thị người ly dị tái hôn nếu đem so sánh với các tình huống bất trật tự khách quan hay gương mù gương xấu công khai nặng nề khác. Bất cứ ai có thói quen văng tục phải cố gắng hết mình để sửa sai; bất cứ ai ăn trộm phải đền trả; bất cứ ai làm hại người lân cận, về vật chất hay tinh thần, đều cần đền bù thiệt hại. Không thực sự cam kết hồi tâm, sẽ không có xá tội theo bí tích và không được phép rước lễ. Không được phép như thế những ai “ương ngạnh trì chí trong tội nặng rõ ràng” (Giáo Luật, điều 915). Rõ ràng không thể có luật trừ cho những người ly dị tái hôn không chịu cam kết.
Tuy nhiên, loại trừ khỏi rước lễ không có nghĩa là loại trừ khỏi Giáo Hội, chỉ có nghĩa một hiệp thông không đầy đủ với Giáo Hội mà thôi. Người ly dị tái hôn tiếp tục là các chi thể của Giáo Hội; họ có thể và nên tham dự vào đời sống và các hoạt động của Giáo Hội. Mặt khác, các tín hữu khác và đặc biệt các mục tử phải chào đón họ cách yêu thương, kính trọng, và quan tâm, cho họ tham dự vào đời sống Giáo Hội, khuyến khích họ làm việc thiện cách quảng đại, và tín thác vào lòng từ bi của Thiên Chúa. “Giúp người ly dị, và lo lắng quan tâm bảo đảm làm sao để họ đừng tự coi họ như bị tách biệt khỏi Giáo Hội, vì trong tư cách những người đã chịu phép rửa, họ có thể, và đúng hơn, phải tham dự vào đời sống Giáo Hội. Họ nên được khuyến khích lắng nghe lời Chúa, tham dự Hy Tế Thánh Lễ, kiên tâm cầu nguyện, đóng góp vào các công việc bác ái và các cố gắng cộng đồng cho công lý, dưỡng dục con cái trong đức tin Kitô Giáo, vun trồng tinh thần và thực hành thống hối và như thế, ngày ngày, van nài ơn thánh Chúa. Hãy để Giáo Hội cầu nguyện cho họ, khuyến khích họ, tự chứng tỏ mình là người mẹ từ nhân, và nhờ thế nâng đỡ họ trong đức tin và đức cậy. […] Với niềm tín thác vững vàng, Giáo Hội tin rằng những người bác bỏ giới răn của Chúa nhưng vẫn sống trong trạng thái này sẽ có khả năng nhận được từ Thiên Chúa ơn hoán cải và cứu rỗi, miễn là họ phải trì chí trong cầu nguyện, thống hối và bác ái” (Familiaris Consortio, 84).
Hai mươi sáu năm sau, các khẳng định về tín lý và mục vụ của Familiaris Consortio đã được Sacramentum Caritatis của Đức Bênêđíctô XVI củng cố, không thay đổi bao nhiêu (số 29). Thay vào đó, một số tiêu chí đã được phụ thêm vào một văn kiện khác của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, tức Reconciliatio Poenitentia, được công bố sau Familiaris Consortio không lâu, và đã minh nhiên trích dẫn tông huấn này. Đức Giáo Hoàng nói tới các Kitô hữu rơi vào “các tình huống đặc biệt tế nhị và hầu như không thể thoát ra được”, trong đó có người ly dị tái hôn và những người sống trong “các tình huống bất hợp lệ”. Trong các trường hợp này, hai nguyên tắc bổ túc phải được tuân giữ: nguyên tắc “cảm thương và từ bi” và nguyên tắc “chân lý và nhất quán”. Dưới ánh sáng của hai nguyên tắc này, người ta có thể tiến tới “việc hoà giải trọn vẹn vào thời khắc chỉ có Đấng Quan Phòng mới biết”. “Chính vì dựa vào các nguyên tắc này, Giáo Hội chỉ có thể mời gọi những con cái nào của mình đang vướng vào các tình huống đau lòng này tiếp cận lòng thương xót của Chúa cách khác vậy, tuy nhiên không phải qua các bí tích thống hối và Thánh Thể cho tới lúc họ đạt được các thiên hướng đòi hỏi” (Reconciliatio et Poenitentia, 34).
Như thế, bất cứ ai nghiêm chỉnh cố gắng sống đúng theo con đường Kitô Giáo, chẳng sớm thì muộn, sẽ nhận được ơn hoán cải và hoà giải trọn vẹn, ngõ hầu lãnh nhận được các bí tích, hay ít nhất ơn cứu rỗi đời đời vào lúc kết thúc cuộc sống trần gian. Trong viễn tượng này, vững tin vào lòng thương xót và tôn trọng chân lý đã cùng được đưa vào việc hoà giải.
Theo cùng văn kiện trên, nẻo đường dẫn tới việc hòa giải trọn vẹn cũng bao gồm “việc năng lặp đi lặp lại các hành vi tin, cậy, mến và thống hối càng làm hoàn hoảo bao nhiêu càng hay” (ibid.). Chúng là các hành vi riêng tư mà chỉ có Thiên Chúa mới biết và phán đoán. Có thể chúng không đạt được mức hoàn hảo cần thiết để công chính hóa người có tội, nhưng ít nhất, chúng giúp chuẩn bị cho việc này. Cũng có thể nói tương tự như thế về việc rước lễ thiêng liêng. Kiểu nói này có ý nói tới ước muốn được rước Thánh Thể hoặc nơi người đã được công chính hóa, nhưng không thể rước lễ bí tích vì các hoàn cảnh chẳng may xẩy ra, hay nơi người có tội vốn bị ngăn cản không được rước lễ bí tích vì tình huống luân lý của mình không tương hợp với Phép Thánh Thể. Nhờ ước muốn này, người trong trường hợp đầu nhận được sự gia tăng của ơn thánh hóa; người trong trường hợp sau nhận được sự trợ giúp để chuẩn bị cho mình được ơn hóan cải và công chính hóa trọn vẹn. Trong cả hai trường hợp, ước muốn chịu lễ đều tốt và lý tưởng để phát triển mối liên hệ với Chúa.
Chủ trương mục vụ hiện hành vừa được trình bày trên đây liên quan trước nhất tới người ly dị và tái hôn. Nhưng Familiaris Consortio cũng đưa ra các lời dạy tương tự đối với những người sống chung mà không kết hôn (số 81) và các người Công Giáo chỉ kết hôn theo dân luật (số 82). Dù tình huống của họ có khác nhau, nhưng cách đối xử với họ gần như giống nhau: không cho họ được chịu các bí tích thống hối và Thánh Thể; hoan nghinh họ tham dự đời sống Giáo Hội; gần gũi họ một cách kính trọng, để hiểu biết họ trên căn bản cá nhân, và do đó, hướng dẫn và đồng hành với họ hướng về trạng thái sống hợp lệ.
Tính hoàn hảo của thực hành hiện nay
Chủ trương hiện nay trong tín lý và kỷ luật của Giáo Hội đối với người ly dị tái hôn và những người sống chung rất nhất quán và đặt căn bản vững chắc trên Thánh Kinh và Thánh Truyền. Tuy nhiên, hiện đang có nhiều người không thấy thoải mái với nó. Nhiều cặp bất hợp lệ coi việc không cho rước lễ như là bị loại hoàn toàn ra khỏi Giáo Hội. Họ cảm thấy bị Giáo Hội hất hủi và không còn cảm nhận được sự gần gũi đầy xót thương của Thiên Chúa. Họ bị cám dỗ rời bỏ cộng đồng Giáo Hội và mất đức tin.
Hiển nhiên, phương thuốc đầu tiên là phải cố gắng hơn nữa để thực thi các chỉ thị khôn ngoan của Huấn Quyền. Ấy thế nhưng, một số người đề nghị nên thêm nhiều cách cụ thể và chuyên biệt hơn trong việc chăm sóc các cặp bất hợp lệ, để đem lại một tầm quan trọng lớn hơn và dễ thấy hơn đối với tư cách chi thể Giáo Hội của họ và để nâng đỡ cuộc sống thiêng liêng của họ cách hữu hiệu hơn. Một số trách vụ trong Giáo Hội, từ trước tới nay người ly dị tái hôn vốn bị cấm làm, nay có thể ủy thác cho họ, ngoại trừ những trách vụ đòi phải có một đời sống gương mẫu. Các buổi cử hành nhằm tăng tiến cuộc sống thiêng liêng của họ nên được tạo ra, cả cho người sống chung nữa. Có thể thay thế việc không cho rước lễ bằng việc chúc lành, như vốn làm với các Kitô hữu không Công Giáo. Đề xuất có tính thách thức hơn cả liên quan tới việc thiết lập một nẻo đường đặc biệt nhằm giúp họ biện phân và thể hiện ý muốn của Thiên Chúa tốt hơn ở trong đời: một nẻo đường có tính bản thân và chung chia trong các cộng đoàn nhỏ, một nẻo đường bao gồm suy niệm và đối thoại, cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa, Giáo Hội, gia đình và cam kết xã hội, cũng như phục vụ bác ái; một hành trình kéo dài nhiều thời gian, cho tới khi vượt qua được trạng huống không tương hợp với Thánh Thể, hoặc thậm chí cho tới lúc kết thúc cuộc sống dương gian, luôn sống tín thác vào lòng từ bi của Thiên Chúa và niềm hy vọng cuộc sống đời đời. Các gợi ý này và các gợi ý tương tự chắc chắn có những khía cạnh tích cực của chúng; nhưng chúng cũng có nguy cơ hạ nhục người ta và đẩy họ qua bên lề thành một loại người khác. Dù sao, cần phải khôn ngoan, kính trọng và quan tâm tế nhị.
Nhiều người than phiền rằng thực hành mục vụ hiện nay của Giáo Hội khi, một cách tổng quát, không cho các cặp bất hợp lệ rước lễ, đã không xem xét đủ điều gọi là “luật tiệm tiến” (“law of gradualness”) từng được chính Huấn Quyền nêu rõ (Xem Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Familiaris Consortio, 34). Họ tự hỏi có thể đưa ra một số luật trừ nào đó hay không. Trước khi đề cập đến việc này, xin đi qua phần dưới trước đã.
Các đề nghị đổi mới
Đó là một thay đổi mục vụ lớn được các phương tiện truyền thông hết mình cổ vũ, và được công chúng cũng như nhiều người Công Giáo, cả giáo dân lẫn giáo sĩ, rất mong chờ.
Phiên Đặc Biệt gần đây của Thượng Hội Đồng Giám Mục (5-19 tháng Mười, 2014) biến nó thành một chủ đề tranh luận sống động.
“Khi cân nhắc một phương thức mục vụ đối với những người đã kết ước một cuộc hôn nhân dân sự, những người đã ly dị và tái hôn hay đơn giản chỉ sống chung với nhau, Giáo Hội có trách nhiệm giúp họ hiểu nền sư phạm của Thiên Chúa về ơn thánh trong đời họ và giúp đỡ để họ đạt tới sự viên mãn của kế hoạch Thiên Chúa dành cho họ. […] Các nghị phụ thượng hội đồng cũng xem xét khả thể cho phép người ly dị và tái hôn được chịu các bí tích thống hối và Thánh Thể… Đề tài này cần được xem xét thấu đáo, luôn nhớ tới việc phân biệt giữa một bên là tình thế tội lỗi khách quan và các hoàn cảnh giảm khinh, xét vì “việc có thể qui tội và trách nhiệm đối với một hành động nào đó có thể gia giảm, thậm chí còn bị triệt tiêu bởi ngu dốt, thiếu thận trọng, bị cưỡng ép, sợ sệt, bởi thói quen, các gắn bó vô trật tự, và nhiều nhân tố tâm lý hay xã hội” (Relatio Synodi, 25 v à 52).
Sự thay đổi mục vụ trên được gợi hứng bởi ý muốn làm cho Giáo Hội có tính chào đón và lôi cuốn hơn đối với nhiều người đang bị thương tổn bởi cuộc khủng hoảng hôn nhân rất phổ biến trong xã hội hiện nay, bằng cách tỏ cho họ và nọi người thấy lòng từ bi của Thiên Chúa một cách cụ thể, bằng cách thừa nhận các giá trị tích cực được coi là hiện diện trong việc sống chung bất hợp lệ, và bằng cách trình bầy Tin Mừng như một hồng ân hơn là một trói buộc.
Các đề nghị có thế giá nhất không nghi vấn tính bất khả tiêu của hôn nhân Kitô Giáo. Thực thế, các đề nghị này cho rằng các tín hữu ly dị tái hôn nên tuyên xưng tính này, bằng cách thừa nhận rằng họ đã phạm tội vì đã phá bỏ sự kết hợp vợ chồng trước đây, xin sự tha thứ, và làm việc thống hối. Cuộc kết hợp thứ hai không được coi là cuộc hôn nhân tự nhiên, vì, đối với người đã chịu phép rửa, chỉ có một cuộc hôn nhân thành sự, đó là cuộc hôn nhân bí tích. Cũng thế, cuộc hôn nhân thứ hai không được coi là hợp giáo luật, vì, vì cuộc hôn nhân đầu bất khả tiêu, nên cuộc hôn nhân thứ hai tạo ra một cuộc đa hôn. Nói tổng quát, người ta thích nói tới một cuộc kết hợp không trọn vẹn, chỉ hầu như có tính hôn nhân, hay một cuộc sống chung, đặt căn bản trên một số giá trị nhân bản và Kitô Giáo (như tình âu yếm, dịu dàng, giúp đỡ lẫn nhau, chăm sóc con cái). Tuy nhiên, một số người công khai nói tới cuộc hôn nhân tự nhiên thứ hai, không có tính bí tích hay hôn nhân dân sự. Nói tóm lại, ngoài các thay đổi về ngôn từ, người ta tin rằng cuộc kết hợp thứ hai tương hợp với tính bất tiêu của cuộc hôn nhân đầu, ít ra trong một số trường hợp; thực sự, theo các đề nghị này, ta nên đánh giá nó như một vốn qúy (asset) cần được bảo vệ, và nên tự chế trong việc đòi hỏi những người liên hệ phải ly thân và tiết dục, là điều quá đáng, gây nhiều khó khăn.
Trong Kỳ Họp Đặc Biệt năm 2014, bộ phận các nghị phụ tỏ ra ủng hộ sự thay đổi này chỉ chấp nhận “phương thức cá nhân hóa nhiều hơn, cho phép lui tới trong trong một số tình huống và với những điều kiện định rõ” (Relatio Synodi, 52). Việc rước lễ chỉ được ban cho các tín hữu ly dị và tái hôn trong các trường hợp không thể nào trở lui được nữa, sau khi đã thanh thỏa mọi nghĩa vụ do cuộc hôn nhân đầu tạo ra và hoàn tất nẻo đường thống hối do vị giám mục giám sát.
Còn đối với các nhà chuyên môn, một số đưa ra giả thuyết cho rước lễ “phiến diện” (partial), tức trong các dịp đặc biệt, có ý nghĩa đặc biệt đối với cuộc sống bản thân hay cuộc sống gia đình, hay mỗi năm một lần vào dịp Phục Sinh. Rồi, một số nói rằng nên giới hạn kỷ luật mới vào những người ly dị và tái hôn dân sự mà thôi, loại trừ những người sống chung trên thực tế (de facto), những cặp có đăng ký và những người đồng tính sống chung với nhau.
Bản thân Đức HY Antonelli thì nghĩ rằng việc hạn chế như trên không thực tiễn, vì những người sống chung đông hơn những người ly dị tái hôn rất nhiều. Cuối cùng, áp lực xã hội và luận lý học nội tại của sự việc chắc chắn sẽ áp đặt các ý kiến ủng hộ việc cho phép rộng rãi hơn.
Các phản bác đối với việc cho phép những người sống chung bất hợp lệ rước lễ
Các mục tử có thế giá và các nhà chuyên môn có giá trị đã nêu ra nhiều phản bác đáng lưu ý chống lại các đề nghị đổi mới nhằm cách mạng hóa thực hành của Giáo Hội.
1. Người ta nên thận trọng lưu ý tới nguy cơ phá hoại tính khả tín của huấn quyền giáo hoàng, vì Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI, trong mấy năm gần đây, đã nhiều lần và cương quyết loại bỏ khả thể cho các người tái hôn và sống chung lãnh nhận các bí tích. Cùng với thế giá của Đức Giáo Hoàng, điều này cũng làm yếu đi thế giá của toàn thể giám mục đoàn thế giới, là đoàn ngũ vốn chia sẻ cùng một chủ trương như thế trong nhiều thế kỷ qua.
2. Việc Giáo Họi chào đón các tín hữu ly dị tái hôn, và tổng quát hơn, những cặp bất hợp lệ, không nhất thiết đòi phải cho họ rước lễ. Đã đành, rước lễ cần thiết cho sự cứu rỗi; tuy nhiên, điều này không có nghĩa chỉ những ai rước lễ mới được cứu rỗi. Giáo Hội cũng cần thiết cho việc cứu rỗi, ấy thế nhưng điều này không hàm nghĩa chỉ những ai hữu hình thuộc về Giáo Hội mới được cứu rỗi. Thánh Thể là biểu thức tối cao nói lên sự hiệp thông với Chúa Kitô, để thánh hóa các cá nhân Kitô hữu và để xây dựng Giáo Hội. Đã đành mọi người chúng ta đều mắc lầm lỗi và không xứng đáng lãnh nhận Thánh Thể; nhưng có nhiều loại thiếu sót và bất xứng khác nhau. “Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, là phạm đến Mình và Máu Chúa…là ăn và uống án phạt mình” (1 Cor 11:27.29). Giáo Hội nhất quán dạy rằng tội trọng khiến người ta không được rước lễ và muốn rước lễ lại thì phải xưng tội (xem Công Đồng Trent, DH 1647; 1641; SGLCGHCG, 1415).
Hơn nữa, cho phép rước lễ không phải chỉ là vấn đề thánh hóa cá nhân. Một Kitô hữu không Công Giáo hay thậm chí một tín hữu của một tôn giáo khác không có phép rửa, về phương diện thiêng liêng, có thể còn gần gũi Thiên Chúa hơn một người Công Giáo giữ đạo, dù họ không được phép rước lễ, vì đâu có hiệp thông trọn vẹn một cách hữu hình với Giáo Hội.
Thánh Thể là đỉnh cao và nguồn suối của sự hiệp thông thiêng liêng và hữu hình. Tính hữu hình này là điều chủ yếu, vì Giáo Hội là một bí tích cứu rỗi và là dấu hiệu công khai của Chúa Giêsu, Cứu Chúa trong thế gian. Tuy nhiên, những người ly dị tái hôn và những người sống chung bất hợp lệ, rơi vào tình huống khách quan và công khai mâu thuẫn nghiêm trọng với Tin Mừng và tín lý của Giáo Hội
Trong bối cảnh văn hóa duy tương đối ngày nay, có nguy cơ tầm thường hóa Phép Thánh Thể và rút gọn nó thành một nghi thức xã hội hóa. Trong một số trường hợp, ngay những người không rửa tội cũng tiến tới bàn thánh, với ý định làm một cử chỉ lịch sự, và những người không tin vẫn đòi quyền được rước lễ tại các lễ cưới và an táng như một dấu chỉ tình liên đới với bằng hữu.
3. Có thể ban Thánh Thể cho các người Công Giáo ly dị và tái hôn trong khi vẫn khẳng nhận tính bất khả tiêu của cuộc hôn nhân thứ nhất và không thừa nhận cuộc kết hợp thứ hai là hôn nhân thực sự (để tránh song hôn). Một chủ trương như thế có khác với lập trường của các Giáo Hội Chính Thống. Các Giáo Hội này cho phép những người ly dị ở tòa đời được kết hôn hợp giáo luật lần thứ hai (thậm chí cả lần thứ ba nữa), dù các cuộc hôn nhân sau có sắc thái thống hối hơn. Thực vậy, xét theo một số phương diện, chủ trương này còn nguy hiểm hơn, vì nó dẫn người ta tới chỗ thừa nhận việc sử dụng hợp pháp cơ năng tính dục ở bên ngoài hôn nhân, giống các cặp sống chung với nhau, là những cặp vốn đông hơn các người ly dị và tái hôn. Những người bi quan nhất thường nói rằng họ thấy trước điều này: cuối cùng người ta sẽ tin rằng việc sống chung trước hôn nhân, cả có đăng ký lẫn không đăng ký, là hợp pháp về phương diện luân lý, cả các liên hệ tính dục qua ngày (occasional), các cuộc kết hợp đồng tính và thậm chí cả đa ái (polyamory) và các cuộc kết hợp đa gia (multiple-family unions) nữa cũng thế.
4. Người ta chắc chắn ước ao muốn thấy một thái độ tích cực được chấp nhận trong thừa tác mục vụ, qua việc “nhậy cảm đối với các khía cạnh tích cực của các cuộc hôn nhân cử hành bằng dân luật và, cả việc sống chung nữa, tuy có nhiều dị biệt hiển nhiên” (Relatio Synodi, số 41).
Các cuộc kết hợp bất hợp lệ chắc chắn có những giá trị nhân bản chân chính (thí dụ, tình âu yếm, giúp đỡ lẫn nhau, dấn thân chung cho con cái), vì sự ác luôn luôn lẫn lộn với sự thiện và không bao giờ hiện hữu trong một trạng thái nguyên chất. Tuy nhiên, ta phải tránh việc trình bầy các cuộc kết hợp này như tự chúng là các giá trị chưa hoàn hảo, vì thực sự có những bất trật tự nghiêm trọng. “Đừng để mình bị đánh lừa; những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu thần, ngoại tình, đĩ điếm nam hay thực hành đồng tính luyến ái, trộm cướp, tham lam, rượu chè, quen chủi bới, trộm cắp sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (1Cor 6:9–10).
Luật tiệm tiến chỉ ảnh hưởng tới trách nhiệm chủ quan của các cá nhân mà thôi, và không nên biến nó thành tính tiệm tiến của lề luật, bằng cách trình bầy sự ác như một sự thiện chưa hoàn hảo. Không hề có tính tiệm tiến giữa điều chân và điều giả, giữa điều thiện và điều ác. Dù không nên phán đoán lương tâm người ta, một điều chỉ có Thiên Chúa mới thấy, và phải đồng hành với họ một cách kính trọng và kiên nhẫn hướng tới sự thiện bao nhiêu có thể, Giáo Hội vẫn không thể không giảng dạy sự thật khách quan về thiện và ác, và chứng minh rằng mọi giới luật của Thiên Chúa đều là những đòi hỏi để có được tình yêu chân chính (xem Gl 5:14; Rm 13:8-10) và nhờ được ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ, tình yêu này có thể tuân giữ được các giới luật này và còn có thể vượt quá cả chúng nữa. Bởi thế, dù khó khăn, đức trong sạch vẫn có thể có đối với mọi người, phù hợp với bậc sống của họ: dù là người kết hôn, người độc thân hay người ly dị và tái hôn. Những người sau cùng vừa kể, dù vì con cái hay vì chính họ, mà không thể chấm dứt việc sống chung, thì ít nhất, cũng có thể nhận được ơn và sức mạnh để thực hành việc tiết dục, và sống mối tương quan bằng hữu và giúp đỡ lẫn nhau “như anh trai em gái”, không thực hành giao hợp tính dục, vốn chỉ dành cho hôn nhân và lên đặc điểm cho tình yêu phu phụ (xem Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Familiaris Consortio, 84).
5. Nhận cho những người ly dị tái hôn và những người sống chung với nhau dự bàn tiệc Thánh Thể là dẫn người ta tới chỗ tách biệt lòng từ bi ra khỏi việc hoán cải, một việc không nhất quán với Tin Mừng.
Nếu thế, đấy là trường hợp duy nhất trong đó sự tha thứ không đòi phải hóan cải. Lòng từ bi của Thiên Chúa luôn dẫn người có tội tới chỗ hoán cải: nó không những giúp họ thoát hình phạt, mà còn chữa lành họ khỏi mặc cảm tội lỗi; nó chẳng liên hệ gì tới lòng khoan dung. Về phần Người, Thiên Chúa luôn ban ơn tha thứ; nhưng sự tha thứ này chỉ được tiếp nhận bởi những ai khiêm nhường, biết thừa nhận rằng mình có tội và đồng ý thay đổi lối sống của mình. Ngược lại, bầu khí duy tương đối và chủ nghĩa chủ quan đạo đức tôn giáo, mà ta đang sống trong đó hiện nay, cổ vũ việc tự công chính hóa chính mình, nhất là trong các lãnh vực xúc cảm và tính dục. Sự thiện là điều người ta coi như một phần thưởng và phù hợp với ý muốn tức khắc của họ. Trung thực và chính trực được gọi là chân chính, hiểu như tự phát (spontaneity). Đàng khác, đang có khuynh hướng giảm thiểu trách nhiệm cho người ta, bằng cách gán bất cứ thất bại nào cho việc điều kiện hóa của xã hội. Ý kiến đang tràn lan hiện nay là: nếu các cuộc hôn nhân thất bại, thì chính vợ chồng không có trách nhiệm hàng đầu nào mà đây là kết quả của tình hình kinh tế và các điều kiện nhân dụng, tính di động của công việc, đòi hỏi của nghề nghiệp; tóm lại, đây là lỗi của xã hội. Chuyện cũng dễ dàng là đổ lỗi cho người phối ngẫu kia và tự cho mình vô tội. Tuy nhiên, ta không nên bỏ qua sự kiện này: nếu một trong hai người phối ngẫu, đôi khi, có thể bị qui lỗi, thì trong cuộc kết hợp mới (bất hợp pháp), cả hai người đều chịu trách nhiệm, và điều này, trước nhất, khiến họ không được rước lễ, bao lâu cuộc kết hợp này còn kéo dài. Khuynh hướng xem xét cuộc kết hợp thứ hai một cách tích cực và chỉ qui tội cho việc ly thân trước đó không hề có bất cứ nền tảng thần học nào cả. Chỉ làm việc thống hối cho nó mà thôi thì không đủ. Cần thiết phải thay đổi đời sống.
6. Thông thường, những người có cảm tình với việc cho phép người ly dị tái hôn và người sống chung được rước lễ tuyên bố rằng việc này không hề nghi vấn tính bất khả tiêu của hôn nhân. Tuy nhiên, quá bên kia ý hướng của họ, xét vì sự thiếu nhất quán về tín lý giữa việc cho phép họ rước lễ và tính bất khả tiêu của hôn nhân, điều này cuối cùng sẽ dẫn ta tới chỗ bác bỏ việc thực hành cụ thể một điều vốn tiếp tục được quả quyết trong nguyên tắc lý thuyết, với nguy cơ rút gọn cuộc hôn nhân bất khả tiêu thành một lý tưởng, rất có thể đẹp đẽ, nhưng chỉ một thiểu số may mắn mới có thể vươn tới.
Về phương diện này, thực hành mục vụ được các Giáo Hội Chính Thống khai triển dạy ta nhiều điều. Các Giáo Hội này duy trì tín lý bất khả tiêu của hôn nhân. Tuy nhiên, trong các thực hành của họ, họ dần dần nhân thừa các lý do để tiêu hủy cuộc hôn nhân trước nhằm cho phép cuộc hôn nhân thứ hai (hay thứ ba). Hơn nữa, con số đơn xin rất cao. Hiện nay, bất cứ ai trình được văn kiện ly dị ở tòa đời cũng đều nhận được phép của Giáo Hội để tái hôn, không cần phải đi qua cuộc điều tra theo giáo luật và việc lượng giá vụ việc.
Người ta cũng dễ thấy trước việc này: việc rước lễ của người ly dị và tái hôn và những người sống chung sẽ mau chóng được tổng quát hóa. Lúc ấy, nói tới tính bất khả tiêu của hôn nhân sẽ là điều vô nghĩa và việc cử hành bí tích hôn phối sẽ mất hết tính liên hệ thực tiễn của nó.
Còn 1 kỳ
Đào tạo những gia đình Kitô Giáo gương mẫu
Trong phần nhập đề, Đức Hồng Y Antonelli tin rằng điều khẩn thiết chính của mục tiêu mục vụ hiện nay là đào tạo các gia đình Kitô Giáo gương mẫu, có khả năng làm chứng một cách cụ thể rằng hôn nhân Kitô Giáo là điều đẹp đẽ và có thể thể hiện trọn vẹn được.
Theo ngài, trong bối cảnh văn hóa hậu Kitô Giáo ngày nay, các trách vụ cần thiết đối với việc chăm sóc mục vụ các gia đình phải như sau:
1. Giáo dục trẻ em và thanh thiếu niên trong lý thuyết và thực hành về tình yêu theo Kitô Giáo, hiểu như việc hiến mình cho người khác và như một hiệp thông biết kính trọng các dị biệt;
2. Chuẩn bị hôn nhân kỹ càng cho các cặp đính hôn, để hôn nhân thành sự và sinh hoa trái, bằng những cuộc hành trình được xén tỉa phù hợp với tình huống tâm linh, văn hóa và xã hội khác nhau;
3. Tiếp tục đào luyện các cặp vợ chồng, nhất là các cặp vợ chồng trẻ, bằng các buổi gặp gỡ định kỳ xen kẽ vào các chương trình mục vụ hàng năm, do các tác nhân xứng hợp trình bầy (thí dụ các cặp vợ chồng có kinh nghiệm), và lưu tâm thích đáng tới các đóng góp của các cộng đoàn nhỏ, các phong trào và hiệp hội.
Nói thế rồi, Đức HY Antonelli thú nhận rằng chủ đề mà ngài quan tâm vừa khó khăn vừa quan trọng, đó là khả thể cho phép người ly dị tái hôn được rước lễ. Ngài muốn được góp một số suy nghĩ về chủ đề này để chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng sắp tới, với hai thái độ từng được Đức Phanxicô khuyến khích đó là parrhesia (mạnh dạn) và khiêm nhường: thành thực phát biểu tư tưởng và lắng nghe người khác một cách kính trọng và sẵn sàng tiếp nhận sự sửa sai huynh đệ hướng tới hồi tâm. Chỉ có thế, ta mới mong phong phú hóa cho nhau và cùng nhau hướng tới sự chân và sự thiện.
Ngài muốn đề cập tới các vấn đề sau đây: bản chất gắn bó và hoàn hảo của các thực hành mục vụ đã được phép từ trước tới nay; các thay đổi được đề nghị và các luận bác đối với chúng; các yếu điểm của điều gọi là Luật Tiệm Tiến (law of gradualness) và các đề nghị nhằm đưa ra các tiêu chuẩn tổng quát đối với việc cho phép người ly dị tái hôn được rước lễ; tín lý đã được xác định vững vàng liên quan tới tính bất khả tiêu của hôn nhân Kitô giáo; tình yêu dâng hiến trong tương quan với tính thành sự của hôn nhân; phúc âm hóa chân chính cần thiết cho một việc tông đồ truyền giáo có hiệu quả.
Các quan điểm tín lý và kỷ luật hiện hành
Do ý muốn của Chúa Kitô, hôn nhân bí tích, một khi đã thành sự và hoàn hợp, thì bất khả tiêu. Mọi phân ly giữa vợ chồng đều chống lại ý muốn của Người. Bất cứ cuộc kết hợp mới nào của một người phối ngẫu ly thân đều bất hợp pháp và tạo nên một bất trật tự nặng nề và tồn lưu về luân lý; nó tạo ra một tình trạng mâu thuẫn khách quan với giao ước phu phụ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, đã được biểu tượng và thể hiện qua Phép Thánh Thể. Bởi thế, người ly dị và tái hôn không thể được phép rước lễ, trước nhất, bởi lý do thần học và sau đó, bởi trật tự mục vụ. “Giáo Hội tái khẳng định thực hành của mình, một thực hành đặt căn bản trên Sách Thánh, không cho phép những người ly dị tái hôn được rước Thánh Thể. Họ không thể được phép như thế do sự kiện: tình trạng và điều kiện sống của họ mâu thuẫn khách quan với sự kết hợp tình yêu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, một sự kết hợp vốn được biểu tượng và thể hiện qua Phép Thánh Thể. Ngoài điều đó ra, còn một lý do mục vụ nữa là: nếu những người này được phép rước lễ, các tín hữu sẽ bị dẫn vào lầm lạc và lẫn lộn về giáo huấn của Giáo Hội đối với tính bất khả tiêu của hôn nhân” (Familiaris Consortio, 84).
Việc không cho phép rước lễ này sẽ tiếp diễn suốt thời kỳ sống cuộc hôn nhân bất hợp pháp. “Nếu các người ly dị tái hôn theo dân luật, họ sẽ rơi vào một tình huống mâu thuẫn khách quan với lề luật Thiên Chúa. Thành thử, họ không thể rước lễ bao lâu tình huống này còn kéo dài” (Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo [SGLCGHCG],số 1650). Việc không cho phép này không kỳ thị người ly dị tái hôn nếu đem so sánh với các tình huống bất trật tự khách quan hay gương mù gương xấu công khai nặng nề khác. Bất cứ ai có thói quen văng tục phải cố gắng hết mình để sửa sai; bất cứ ai ăn trộm phải đền trả; bất cứ ai làm hại người lân cận, về vật chất hay tinh thần, đều cần đền bù thiệt hại. Không thực sự cam kết hồi tâm, sẽ không có xá tội theo bí tích và không được phép rước lễ. Không được phép như thế những ai “ương ngạnh trì chí trong tội nặng rõ ràng” (Giáo Luật, điều 915). Rõ ràng không thể có luật trừ cho những người ly dị tái hôn không chịu cam kết.
Tuy nhiên, loại trừ khỏi rước lễ không có nghĩa là loại trừ khỏi Giáo Hội, chỉ có nghĩa một hiệp thông không đầy đủ với Giáo Hội mà thôi. Người ly dị tái hôn tiếp tục là các chi thể của Giáo Hội; họ có thể và nên tham dự vào đời sống và các hoạt động của Giáo Hội. Mặt khác, các tín hữu khác và đặc biệt các mục tử phải chào đón họ cách yêu thương, kính trọng, và quan tâm, cho họ tham dự vào đời sống Giáo Hội, khuyến khích họ làm việc thiện cách quảng đại, và tín thác vào lòng từ bi của Thiên Chúa. “Giúp người ly dị, và lo lắng quan tâm bảo đảm làm sao để họ đừng tự coi họ như bị tách biệt khỏi Giáo Hội, vì trong tư cách những người đã chịu phép rửa, họ có thể, và đúng hơn, phải tham dự vào đời sống Giáo Hội. Họ nên được khuyến khích lắng nghe lời Chúa, tham dự Hy Tế Thánh Lễ, kiên tâm cầu nguyện, đóng góp vào các công việc bác ái và các cố gắng cộng đồng cho công lý, dưỡng dục con cái trong đức tin Kitô Giáo, vun trồng tinh thần và thực hành thống hối và như thế, ngày ngày, van nài ơn thánh Chúa. Hãy để Giáo Hội cầu nguyện cho họ, khuyến khích họ, tự chứng tỏ mình là người mẹ từ nhân, và nhờ thế nâng đỡ họ trong đức tin và đức cậy. […] Với niềm tín thác vững vàng, Giáo Hội tin rằng những người bác bỏ giới răn của Chúa nhưng vẫn sống trong trạng thái này sẽ có khả năng nhận được từ Thiên Chúa ơn hoán cải và cứu rỗi, miễn là họ phải trì chí trong cầu nguyện, thống hối và bác ái” (Familiaris Consortio, 84).
Hai mươi sáu năm sau, các khẳng định về tín lý và mục vụ của Familiaris Consortio đã được Sacramentum Caritatis của Đức Bênêđíctô XVI củng cố, không thay đổi bao nhiêu (số 29). Thay vào đó, một số tiêu chí đã được phụ thêm vào một văn kiện khác của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, tức Reconciliatio Poenitentia, được công bố sau Familiaris Consortio không lâu, và đã minh nhiên trích dẫn tông huấn này. Đức Giáo Hoàng nói tới các Kitô hữu rơi vào “các tình huống đặc biệt tế nhị và hầu như không thể thoát ra được”, trong đó có người ly dị tái hôn và những người sống trong “các tình huống bất hợp lệ”. Trong các trường hợp này, hai nguyên tắc bổ túc phải được tuân giữ: nguyên tắc “cảm thương và từ bi” và nguyên tắc “chân lý và nhất quán”. Dưới ánh sáng của hai nguyên tắc này, người ta có thể tiến tới “việc hoà giải trọn vẹn vào thời khắc chỉ có Đấng Quan Phòng mới biết”. “Chính vì dựa vào các nguyên tắc này, Giáo Hội chỉ có thể mời gọi những con cái nào của mình đang vướng vào các tình huống đau lòng này tiếp cận lòng thương xót của Chúa cách khác vậy, tuy nhiên không phải qua các bí tích thống hối và Thánh Thể cho tới lúc họ đạt được các thiên hướng đòi hỏi” (Reconciliatio et Poenitentia, 34).
Như thế, bất cứ ai nghiêm chỉnh cố gắng sống đúng theo con đường Kitô Giáo, chẳng sớm thì muộn, sẽ nhận được ơn hoán cải và hoà giải trọn vẹn, ngõ hầu lãnh nhận được các bí tích, hay ít nhất ơn cứu rỗi đời đời vào lúc kết thúc cuộc sống trần gian. Trong viễn tượng này, vững tin vào lòng thương xót và tôn trọng chân lý đã cùng được đưa vào việc hoà giải.
Theo cùng văn kiện trên, nẻo đường dẫn tới việc hòa giải trọn vẹn cũng bao gồm “việc năng lặp đi lặp lại các hành vi tin, cậy, mến và thống hối càng làm hoàn hoảo bao nhiêu càng hay” (ibid.). Chúng là các hành vi riêng tư mà chỉ có Thiên Chúa mới biết và phán đoán. Có thể chúng không đạt được mức hoàn hảo cần thiết để công chính hóa người có tội, nhưng ít nhất, chúng giúp chuẩn bị cho việc này. Cũng có thể nói tương tự như thế về việc rước lễ thiêng liêng. Kiểu nói này có ý nói tới ước muốn được rước Thánh Thể hoặc nơi người đã được công chính hóa, nhưng không thể rước lễ bí tích vì các hoàn cảnh chẳng may xẩy ra, hay nơi người có tội vốn bị ngăn cản không được rước lễ bí tích vì tình huống luân lý của mình không tương hợp với Phép Thánh Thể. Nhờ ước muốn này, người trong trường hợp đầu nhận được sự gia tăng của ơn thánh hóa; người trong trường hợp sau nhận được sự trợ giúp để chuẩn bị cho mình được ơn hóan cải và công chính hóa trọn vẹn. Trong cả hai trường hợp, ước muốn chịu lễ đều tốt và lý tưởng để phát triển mối liên hệ với Chúa.
Chủ trương mục vụ hiện hành vừa được trình bày trên đây liên quan trước nhất tới người ly dị và tái hôn. Nhưng Familiaris Consortio cũng đưa ra các lời dạy tương tự đối với những người sống chung mà không kết hôn (số 81) và các người Công Giáo chỉ kết hôn theo dân luật (số 82). Dù tình huống của họ có khác nhau, nhưng cách đối xử với họ gần như giống nhau: không cho họ được chịu các bí tích thống hối và Thánh Thể; hoan nghinh họ tham dự đời sống Giáo Hội; gần gũi họ một cách kính trọng, để hiểu biết họ trên căn bản cá nhân, và do đó, hướng dẫn và đồng hành với họ hướng về trạng thái sống hợp lệ.
Tính hoàn hảo của thực hành hiện nay
Chủ trương hiện nay trong tín lý và kỷ luật của Giáo Hội đối với người ly dị tái hôn và những người sống chung rất nhất quán và đặt căn bản vững chắc trên Thánh Kinh và Thánh Truyền. Tuy nhiên, hiện đang có nhiều người không thấy thoải mái với nó. Nhiều cặp bất hợp lệ coi việc không cho rước lễ như là bị loại hoàn toàn ra khỏi Giáo Hội. Họ cảm thấy bị Giáo Hội hất hủi và không còn cảm nhận được sự gần gũi đầy xót thương của Thiên Chúa. Họ bị cám dỗ rời bỏ cộng đồng Giáo Hội và mất đức tin.
Hiển nhiên, phương thuốc đầu tiên là phải cố gắng hơn nữa để thực thi các chỉ thị khôn ngoan của Huấn Quyền. Ấy thế nhưng, một số người đề nghị nên thêm nhiều cách cụ thể và chuyên biệt hơn trong việc chăm sóc các cặp bất hợp lệ, để đem lại một tầm quan trọng lớn hơn và dễ thấy hơn đối với tư cách chi thể Giáo Hội của họ và để nâng đỡ cuộc sống thiêng liêng của họ cách hữu hiệu hơn. Một số trách vụ trong Giáo Hội, từ trước tới nay người ly dị tái hôn vốn bị cấm làm, nay có thể ủy thác cho họ, ngoại trừ những trách vụ đòi phải có một đời sống gương mẫu. Các buổi cử hành nhằm tăng tiến cuộc sống thiêng liêng của họ nên được tạo ra, cả cho người sống chung nữa. Có thể thay thế việc không cho rước lễ bằng việc chúc lành, như vốn làm với các Kitô hữu không Công Giáo. Đề xuất có tính thách thức hơn cả liên quan tới việc thiết lập một nẻo đường đặc biệt nhằm giúp họ biện phân và thể hiện ý muốn của Thiên Chúa tốt hơn ở trong đời: một nẻo đường có tính bản thân và chung chia trong các cộng đoàn nhỏ, một nẻo đường bao gồm suy niệm và đối thoại, cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa, Giáo Hội, gia đình và cam kết xã hội, cũng như phục vụ bác ái; một hành trình kéo dài nhiều thời gian, cho tới khi vượt qua được trạng huống không tương hợp với Thánh Thể, hoặc thậm chí cho tới lúc kết thúc cuộc sống dương gian, luôn sống tín thác vào lòng từ bi của Thiên Chúa và niềm hy vọng cuộc sống đời đời. Các gợi ý này và các gợi ý tương tự chắc chắn có những khía cạnh tích cực của chúng; nhưng chúng cũng có nguy cơ hạ nhục người ta và đẩy họ qua bên lề thành một loại người khác. Dù sao, cần phải khôn ngoan, kính trọng và quan tâm tế nhị.
Nhiều người than phiền rằng thực hành mục vụ hiện nay của Giáo Hội khi, một cách tổng quát, không cho các cặp bất hợp lệ rước lễ, đã không xem xét đủ điều gọi là “luật tiệm tiến” (“law of gradualness”) từng được chính Huấn Quyền nêu rõ (Xem Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Familiaris Consortio, 34). Họ tự hỏi có thể đưa ra một số luật trừ nào đó hay không. Trước khi đề cập đến việc này, xin đi qua phần dưới trước đã.
Các đề nghị đổi mới
Đó là một thay đổi mục vụ lớn được các phương tiện truyền thông hết mình cổ vũ, và được công chúng cũng như nhiều người Công Giáo, cả giáo dân lẫn giáo sĩ, rất mong chờ.
Phiên Đặc Biệt gần đây của Thượng Hội Đồng Giám Mục (5-19 tháng Mười, 2014) biến nó thành một chủ đề tranh luận sống động.
“Khi cân nhắc một phương thức mục vụ đối với những người đã kết ước một cuộc hôn nhân dân sự, những người đã ly dị và tái hôn hay đơn giản chỉ sống chung với nhau, Giáo Hội có trách nhiệm giúp họ hiểu nền sư phạm của Thiên Chúa về ơn thánh trong đời họ và giúp đỡ để họ đạt tới sự viên mãn của kế hoạch Thiên Chúa dành cho họ. […] Các nghị phụ thượng hội đồng cũng xem xét khả thể cho phép người ly dị và tái hôn được chịu các bí tích thống hối và Thánh Thể… Đề tài này cần được xem xét thấu đáo, luôn nhớ tới việc phân biệt giữa một bên là tình thế tội lỗi khách quan và các hoàn cảnh giảm khinh, xét vì “việc có thể qui tội và trách nhiệm đối với một hành động nào đó có thể gia giảm, thậm chí còn bị triệt tiêu bởi ngu dốt, thiếu thận trọng, bị cưỡng ép, sợ sệt, bởi thói quen, các gắn bó vô trật tự, và nhiều nhân tố tâm lý hay xã hội” (Relatio Synodi, 25 v à 52).
Sự thay đổi mục vụ trên được gợi hứng bởi ý muốn làm cho Giáo Hội có tính chào đón và lôi cuốn hơn đối với nhiều người đang bị thương tổn bởi cuộc khủng hoảng hôn nhân rất phổ biến trong xã hội hiện nay, bằng cách tỏ cho họ và nọi người thấy lòng từ bi của Thiên Chúa một cách cụ thể, bằng cách thừa nhận các giá trị tích cực được coi là hiện diện trong việc sống chung bất hợp lệ, và bằng cách trình bầy Tin Mừng như một hồng ân hơn là một trói buộc.
Các đề nghị có thế giá nhất không nghi vấn tính bất khả tiêu của hôn nhân Kitô Giáo. Thực thế, các đề nghị này cho rằng các tín hữu ly dị tái hôn nên tuyên xưng tính này, bằng cách thừa nhận rằng họ đã phạm tội vì đã phá bỏ sự kết hợp vợ chồng trước đây, xin sự tha thứ, và làm việc thống hối. Cuộc kết hợp thứ hai không được coi là cuộc hôn nhân tự nhiên, vì, đối với người đã chịu phép rửa, chỉ có một cuộc hôn nhân thành sự, đó là cuộc hôn nhân bí tích. Cũng thế, cuộc hôn nhân thứ hai không được coi là hợp giáo luật, vì, vì cuộc hôn nhân đầu bất khả tiêu, nên cuộc hôn nhân thứ hai tạo ra một cuộc đa hôn. Nói tổng quát, người ta thích nói tới một cuộc kết hợp không trọn vẹn, chỉ hầu như có tính hôn nhân, hay một cuộc sống chung, đặt căn bản trên một số giá trị nhân bản và Kitô Giáo (như tình âu yếm, dịu dàng, giúp đỡ lẫn nhau, chăm sóc con cái). Tuy nhiên, một số người công khai nói tới cuộc hôn nhân tự nhiên thứ hai, không có tính bí tích hay hôn nhân dân sự. Nói tóm lại, ngoài các thay đổi về ngôn từ, người ta tin rằng cuộc kết hợp thứ hai tương hợp với tính bất tiêu của cuộc hôn nhân đầu, ít ra trong một số trường hợp; thực sự, theo các đề nghị này, ta nên đánh giá nó như một vốn qúy (asset) cần được bảo vệ, và nên tự chế trong việc đòi hỏi những người liên hệ phải ly thân và tiết dục, là điều quá đáng, gây nhiều khó khăn.
Trong Kỳ Họp Đặc Biệt năm 2014, bộ phận các nghị phụ tỏ ra ủng hộ sự thay đổi này chỉ chấp nhận “phương thức cá nhân hóa nhiều hơn, cho phép lui tới trong trong một số tình huống và với những điều kiện định rõ” (Relatio Synodi, 52). Việc rước lễ chỉ được ban cho các tín hữu ly dị và tái hôn trong các trường hợp không thể nào trở lui được nữa, sau khi đã thanh thỏa mọi nghĩa vụ do cuộc hôn nhân đầu tạo ra và hoàn tất nẻo đường thống hối do vị giám mục giám sát.
Còn đối với các nhà chuyên môn, một số đưa ra giả thuyết cho rước lễ “phiến diện” (partial), tức trong các dịp đặc biệt, có ý nghĩa đặc biệt đối với cuộc sống bản thân hay cuộc sống gia đình, hay mỗi năm một lần vào dịp Phục Sinh. Rồi, một số nói rằng nên giới hạn kỷ luật mới vào những người ly dị và tái hôn dân sự mà thôi, loại trừ những người sống chung trên thực tế (de facto), những cặp có đăng ký và những người đồng tính sống chung với nhau.
Bản thân Đức HY Antonelli thì nghĩ rằng việc hạn chế như trên không thực tiễn, vì những người sống chung đông hơn những người ly dị tái hôn rất nhiều. Cuối cùng, áp lực xã hội và luận lý học nội tại của sự việc chắc chắn sẽ áp đặt các ý kiến ủng hộ việc cho phép rộng rãi hơn.
Các phản bác đối với việc cho phép những người sống chung bất hợp lệ rước lễ
Các mục tử có thế giá và các nhà chuyên môn có giá trị đã nêu ra nhiều phản bác đáng lưu ý chống lại các đề nghị đổi mới nhằm cách mạng hóa thực hành của Giáo Hội.
1. Người ta nên thận trọng lưu ý tới nguy cơ phá hoại tính khả tín của huấn quyền giáo hoàng, vì Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI, trong mấy năm gần đây, đã nhiều lần và cương quyết loại bỏ khả thể cho các người tái hôn và sống chung lãnh nhận các bí tích. Cùng với thế giá của Đức Giáo Hoàng, điều này cũng làm yếu đi thế giá của toàn thể giám mục đoàn thế giới, là đoàn ngũ vốn chia sẻ cùng một chủ trương như thế trong nhiều thế kỷ qua.
2. Việc Giáo Họi chào đón các tín hữu ly dị tái hôn, và tổng quát hơn, những cặp bất hợp lệ, không nhất thiết đòi phải cho họ rước lễ. Đã đành, rước lễ cần thiết cho sự cứu rỗi; tuy nhiên, điều này không có nghĩa chỉ những ai rước lễ mới được cứu rỗi. Giáo Hội cũng cần thiết cho việc cứu rỗi, ấy thế nhưng điều này không hàm nghĩa chỉ những ai hữu hình thuộc về Giáo Hội mới được cứu rỗi. Thánh Thể là biểu thức tối cao nói lên sự hiệp thông với Chúa Kitô, để thánh hóa các cá nhân Kitô hữu và để xây dựng Giáo Hội. Đã đành mọi người chúng ta đều mắc lầm lỗi và không xứng đáng lãnh nhận Thánh Thể; nhưng có nhiều loại thiếu sót và bất xứng khác nhau. “Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, là phạm đến Mình và Máu Chúa…là ăn và uống án phạt mình” (1 Cor 11:27.29). Giáo Hội nhất quán dạy rằng tội trọng khiến người ta không được rước lễ và muốn rước lễ lại thì phải xưng tội (xem Công Đồng Trent, DH 1647; 1641; SGLCGHCG, 1415).
Hơn nữa, cho phép rước lễ không phải chỉ là vấn đề thánh hóa cá nhân. Một Kitô hữu không Công Giáo hay thậm chí một tín hữu của một tôn giáo khác không có phép rửa, về phương diện thiêng liêng, có thể còn gần gũi Thiên Chúa hơn một người Công Giáo giữ đạo, dù họ không được phép rước lễ, vì đâu có hiệp thông trọn vẹn một cách hữu hình với Giáo Hội.
Thánh Thể là đỉnh cao và nguồn suối của sự hiệp thông thiêng liêng và hữu hình. Tính hữu hình này là điều chủ yếu, vì Giáo Hội là một bí tích cứu rỗi và là dấu hiệu công khai của Chúa Giêsu, Cứu Chúa trong thế gian. Tuy nhiên, những người ly dị tái hôn và những người sống chung bất hợp lệ, rơi vào tình huống khách quan và công khai mâu thuẫn nghiêm trọng với Tin Mừng và tín lý của Giáo Hội
Trong bối cảnh văn hóa duy tương đối ngày nay, có nguy cơ tầm thường hóa Phép Thánh Thể và rút gọn nó thành một nghi thức xã hội hóa. Trong một số trường hợp, ngay những người không rửa tội cũng tiến tới bàn thánh, với ý định làm một cử chỉ lịch sự, và những người không tin vẫn đòi quyền được rước lễ tại các lễ cưới và an táng như một dấu chỉ tình liên đới với bằng hữu.
3. Có thể ban Thánh Thể cho các người Công Giáo ly dị và tái hôn trong khi vẫn khẳng nhận tính bất khả tiêu của cuộc hôn nhân thứ nhất và không thừa nhận cuộc kết hợp thứ hai là hôn nhân thực sự (để tránh song hôn). Một chủ trương như thế có khác với lập trường của các Giáo Hội Chính Thống. Các Giáo Hội này cho phép những người ly dị ở tòa đời được kết hôn hợp giáo luật lần thứ hai (thậm chí cả lần thứ ba nữa), dù các cuộc hôn nhân sau có sắc thái thống hối hơn. Thực vậy, xét theo một số phương diện, chủ trương này còn nguy hiểm hơn, vì nó dẫn người ta tới chỗ thừa nhận việc sử dụng hợp pháp cơ năng tính dục ở bên ngoài hôn nhân, giống các cặp sống chung với nhau, là những cặp vốn đông hơn các người ly dị và tái hôn. Những người bi quan nhất thường nói rằng họ thấy trước điều này: cuối cùng người ta sẽ tin rằng việc sống chung trước hôn nhân, cả có đăng ký lẫn không đăng ký, là hợp pháp về phương diện luân lý, cả các liên hệ tính dục qua ngày (occasional), các cuộc kết hợp đồng tính và thậm chí cả đa ái (polyamory) và các cuộc kết hợp đa gia (multiple-family unions) nữa cũng thế.
4. Người ta chắc chắn ước ao muốn thấy một thái độ tích cực được chấp nhận trong thừa tác mục vụ, qua việc “nhậy cảm đối với các khía cạnh tích cực của các cuộc hôn nhân cử hành bằng dân luật và, cả việc sống chung nữa, tuy có nhiều dị biệt hiển nhiên” (Relatio Synodi, số 41).
Các cuộc kết hợp bất hợp lệ chắc chắn có những giá trị nhân bản chân chính (thí dụ, tình âu yếm, giúp đỡ lẫn nhau, dấn thân chung cho con cái), vì sự ác luôn luôn lẫn lộn với sự thiện và không bao giờ hiện hữu trong một trạng thái nguyên chất. Tuy nhiên, ta phải tránh việc trình bầy các cuộc kết hợp này như tự chúng là các giá trị chưa hoàn hảo, vì thực sự có những bất trật tự nghiêm trọng. “Đừng để mình bị đánh lừa; những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu thần, ngoại tình, đĩ điếm nam hay thực hành đồng tính luyến ái, trộm cướp, tham lam, rượu chè, quen chủi bới, trộm cắp sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (1Cor 6:9–10).
Luật tiệm tiến chỉ ảnh hưởng tới trách nhiệm chủ quan của các cá nhân mà thôi, và không nên biến nó thành tính tiệm tiến của lề luật, bằng cách trình bầy sự ác như một sự thiện chưa hoàn hảo. Không hề có tính tiệm tiến giữa điều chân và điều giả, giữa điều thiện và điều ác. Dù không nên phán đoán lương tâm người ta, một điều chỉ có Thiên Chúa mới thấy, và phải đồng hành với họ một cách kính trọng và kiên nhẫn hướng tới sự thiện bao nhiêu có thể, Giáo Hội vẫn không thể không giảng dạy sự thật khách quan về thiện và ác, và chứng minh rằng mọi giới luật của Thiên Chúa đều là những đòi hỏi để có được tình yêu chân chính (xem Gl 5:14; Rm 13:8-10) và nhờ được ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ, tình yêu này có thể tuân giữ được các giới luật này và còn có thể vượt quá cả chúng nữa. Bởi thế, dù khó khăn, đức trong sạch vẫn có thể có đối với mọi người, phù hợp với bậc sống của họ: dù là người kết hôn, người độc thân hay người ly dị và tái hôn. Những người sau cùng vừa kể, dù vì con cái hay vì chính họ, mà không thể chấm dứt việc sống chung, thì ít nhất, cũng có thể nhận được ơn và sức mạnh để thực hành việc tiết dục, và sống mối tương quan bằng hữu và giúp đỡ lẫn nhau “như anh trai em gái”, không thực hành giao hợp tính dục, vốn chỉ dành cho hôn nhân và lên đặc điểm cho tình yêu phu phụ (xem Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Familiaris Consortio, 84).
5. Nhận cho những người ly dị tái hôn và những người sống chung với nhau dự bàn tiệc Thánh Thể là dẫn người ta tới chỗ tách biệt lòng từ bi ra khỏi việc hoán cải, một việc không nhất quán với Tin Mừng.
Nếu thế, đấy là trường hợp duy nhất trong đó sự tha thứ không đòi phải hóan cải. Lòng từ bi của Thiên Chúa luôn dẫn người có tội tới chỗ hoán cải: nó không những giúp họ thoát hình phạt, mà còn chữa lành họ khỏi mặc cảm tội lỗi; nó chẳng liên hệ gì tới lòng khoan dung. Về phần Người, Thiên Chúa luôn ban ơn tha thứ; nhưng sự tha thứ này chỉ được tiếp nhận bởi những ai khiêm nhường, biết thừa nhận rằng mình có tội và đồng ý thay đổi lối sống của mình. Ngược lại, bầu khí duy tương đối và chủ nghĩa chủ quan đạo đức tôn giáo, mà ta đang sống trong đó hiện nay, cổ vũ việc tự công chính hóa chính mình, nhất là trong các lãnh vực xúc cảm và tính dục. Sự thiện là điều người ta coi như một phần thưởng và phù hợp với ý muốn tức khắc của họ. Trung thực và chính trực được gọi là chân chính, hiểu như tự phát (spontaneity). Đàng khác, đang có khuynh hướng giảm thiểu trách nhiệm cho người ta, bằng cách gán bất cứ thất bại nào cho việc điều kiện hóa của xã hội. Ý kiến đang tràn lan hiện nay là: nếu các cuộc hôn nhân thất bại, thì chính vợ chồng không có trách nhiệm hàng đầu nào mà đây là kết quả của tình hình kinh tế và các điều kiện nhân dụng, tính di động của công việc, đòi hỏi của nghề nghiệp; tóm lại, đây là lỗi của xã hội. Chuyện cũng dễ dàng là đổ lỗi cho người phối ngẫu kia và tự cho mình vô tội. Tuy nhiên, ta không nên bỏ qua sự kiện này: nếu một trong hai người phối ngẫu, đôi khi, có thể bị qui lỗi, thì trong cuộc kết hợp mới (bất hợp pháp), cả hai người đều chịu trách nhiệm, và điều này, trước nhất, khiến họ không được rước lễ, bao lâu cuộc kết hợp này còn kéo dài. Khuynh hướng xem xét cuộc kết hợp thứ hai một cách tích cực và chỉ qui tội cho việc ly thân trước đó không hề có bất cứ nền tảng thần học nào cả. Chỉ làm việc thống hối cho nó mà thôi thì không đủ. Cần thiết phải thay đổi đời sống.
6. Thông thường, những người có cảm tình với việc cho phép người ly dị tái hôn và người sống chung được rước lễ tuyên bố rằng việc này không hề nghi vấn tính bất khả tiêu của hôn nhân. Tuy nhiên, quá bên kia ý hướng của họ, xét vì sự thiếu nhất quán về tín lý giữa việc cho phép họ rước lễ và tính bất khả tiêu của hôn nhân, điều này cuối cùng sẽ dẫn ta tới chỗ bác bỏ việc thực hành cụ thể một điều vốn tiếp tục được quả quyết trong nguyên tắc lý thuyết, với nguy cơ rút gọn cuộc hôn nhân bất khả tiêu thành một lý tưởng, rất có thể đẹp đẽ, nhưng chỉ một thiểu số may mắn mới có thể vươn tới.
Về phương diện này, thực hành mục vụ được các Giáo Hội Chính Thống khai triển dạy ta nhiều điều. Các Giáo Hội này duy trì tín lý bất khả tiêu của hôn nhân. Tuy nhiên, trong các thực hành của họ, họ dần dần nhân thừa các lý do để tiêu hủy cuộc hôn nhân trước nhằm cho phép cuộc hôn nhân thứ hai (hay thứ ba). Hơn nữa, con số đơn xin rất cao. Hiện nay, bất cứ ai trình được văn kiện ly dị ở tòa đời cũng đều nhận được phép của Giáo Hội để tái hôn, không cần phải đi qua cuộc điều tra theo giáo luật và việc lượng giá vụ việc.
Người ta cũng dễ thấy trước việc này: việc rước lễ của người ly dị và tái hôn và những người sống chung sẽ mau chóng được tổng quát hóa. Lúc ấy, nói tới tính bất khả tiêu của hôn nhân sẽ là điều vô nghĩa và việc cử hành bí tích hôn phối sẽ mất hết tính liên hệ thực tiễn của nó.
Còn 1 kỳ