Đức Kitô Phục Sinh nói với Thomas: 'Con xem thấy Thầy nên con tin, phúc cho ai không thấy mà tin'. Câu nói này Đức kitô không phải chỉ nói riêng cho Thomas, nhưng chung cho tất cả các môn đệ và còn nói cho mọi thế hệ, toàn thể nhân loại. Họ được chúc phúc bởi không thấy mà tin. Đúng ra là họ tin những điều các môn đệ Đức Kitô rao giảng, làm chứng về sự sống lại của Đức Kitô.
Rõ ràng Đức Kitô Phục Sinh trực tiếp nói với Thomas hãy tin là Đức Kitô Phục Sinh. Điều Thomas đòi hỏi ngoài khả năng nhân loại- xỏ tay vào lỗ đinh nơi tay Đức Kitô- không ai có thể làm được, ngoại trừ Đức Kitô. Nhờ ông đòi hỏi mà các môn đệ được gặp lại Đức Kitô Phục Sinh thêm một lần nữa. Cũng nhờ Thomas đòi hỏi mà những ai tin vào Đức Kitô được biết là họ nhận được ân phúc của Thiên Chúa, khi Đức Kitô nói: Phúc cho ai không thấy mà tin. Nhìn thấy Đức Kitô, nghe tiếng Ngài và Ngài nói với Thomas hãy xỏ tay vào lỗ đinh họ đóng vào tay Thầy. Thomas ước ao được làm điều đó nhưng cơ hội đến, Thoma không dám làm điều ông ước mơ và ông vội đáp lại. Lậy Chúa của con; lậy Thiên Chúa của con Jn 20,28. Tất cả các môn đệ đều nghi ngờ tin Đức Kitô sống lại từ cõi chết. Tuy nhiên, không ai nói ra điều đó, ngoại trừ Thomas và vì thế ông được biết đến là Thomas kẻ nghi ngờ. Nhân loại cần cám ơn Thomas cho sự thành thật, can đảm của ông. Rất có thể ông là người môn đệ sau cùng tin là Đức Kitô đã sống lại.
Đối với các môn đệ khác thì sao? Đức Kitô cũng kêu gọi các ông hãy tin và đừng nghi ngờ nữa. Đức Kitô kêu gọi các ông hãy tin, vì trong số các ông đã không tin Đức Kitô sống lại từ cõi chết như những tường thuật của các người khác. Người đầu tiên tường thuật Đức Kitô đã sống lại là các bà đạo đức, tảng sáng ngày hưu lễ đi ra mộ, mang theo hương ướp xác Đức Kitô, các bà đã gặp Ngài và vội vã trở về báo tin cho các môn đệ. Một trong số những người phụ nữ đó là Magdala Mk 16,9-11. Các ông đã nửa tin, nửa ngờ, vội vã chạy ra mộ. Hai người đó là Phêrô và Gioan Lc 24,12. Đức Kitô Phục Sinh hẹn gặp các ông tại Galilê, khi gặp Ngài một số tin bái lậy Ngài, số khác lại hoài nghi Mat 28,17. Hai môn đệ trên đường Emaus cũng nghe các bà phụ nữ tường thuật, nhưng các ông không tin, bỏ các môn đệ khác, trên đường về quê quán. Trên đường đi, các ông gặp Ngài trò truyện, nhưng không nhận ra Ngài, mãi cho đến khi gần tối, lúc tụ họp ăn tối các ông nhận ra cách Ngài bẻ bánh, cùng kiểu cách trong bữa Tiệc Li, đến lúc đó các ông mới nhận ra Ngài. Ngay trong đêm, các ông vội vã trở về báo tin cho các anh em khác, nhưng họ cũng không tin hai ông Mc 16,13. Bởi các ông không tin những tường thuật mắt thấy, tai nghe của các bà phụ nữ, của hai môn đệ trên đường Emau, và của các môn đệ khác nên Đức Kitô nhắc các ông. Hãy tin và đừng nghi ngờ nữa. Ngài đã sống lại thật như điều đã phán hứa. Đối với xã hội hiện nay, nhiều người vẫn không tin vào Đức Kitô Phục Sinh, và như thế điều Đức Kitô mời gọi hãy tin và đừng nghi ngờ nữa áp dụng cho chính chúng ta.
'Phúc cho ai không thấy mà tin' là điều Đức Kitô nói với các thế hệ sau các tông đồ. Đức Kitô kêu gọi các thế hệ sau các tông đồ, hãy tin vào điều các tông đồ rao giảng. Họ rao giảng kinh nghiệm bản thân, rao giảng điều mắt thấy, tai nghe, làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh. Các ngài đã rao giảng, đã viết sách, và đã lấy máu mình làm chứng cho điều các ngài rao giảng.
Chữ tín các môn đệ sống với Đức Kitô trong ba năm, dưới sự hướng dẫn, che chở, đùm bọc của Ngài. Các ông được sai đi rao giảng chung, cùng làm việc chung. Ba năm sống chung chưa dài đủ để tin nhau hay sao? Thực ra, các ông tin tưởng và quí mến nhau. Ba năm xây đắp niềm tin, chỉ cần một ngày niềm tin đó bị phá hủy. Hai biến cố giết chết niềm tin, một là hành động phản bội của Juda, và hai là hành động chối thầy của Phêrô. Juda người được Đức Kitô tin dùng, trao phó cho việc quản lí tài sản chung cho cả nhóm. Ông đã phản bội Đức Kitô, bán Thầy và đó là nguyên nhân chính gây nên đổ nát niềm tin nơi anh em. Juda thống hối. Cái chết của ông không đủ lấy lại niềm tin đang chết nơi các thân hữu. Niềm tin yếu đuối này bị thử thách thêm một lần nữa, và chính lần này giết chết niềm tin nơi các môn đệ. Trong bữa Tiệc Li, Phêrô đã quả quyết với Đức Kitô 'dầu tất cả có vấp ngã, thì con cũng nhất định là không' Jn 14,29. Câu nói chắc chắn trên bị thử thách, và Phêrô đã thất bại trong thử thách. Ông đã chối Thầy. Phêrô được các anh em quí mến, coi như trưởng nhóm vì mọi sự đều do Phêrô trình báo với Đức Kitô, ông đã đoan hứa không bao giờ phản bội, thế nhưng lời hứa đó, trong sợ hãi ông đã thất hứa. Nếu Juda phản bội làm mất lòng tin nơi anh em, thì Phêrô chối Thầy giết chết niềm tin đó. Do vậy, các ông không tin lẫn nhau, và đòi cho được bằng chứng cụ thể, xác minh điều các ông nói. Niềm tin nơi các môn đệ trước đây đặt căn bản trên vật chất, địa vị, danh vọng trần thế. Niềm tin đó bị giết chết. Đức Kitô Phục sinh đến ban cho các ông niềm tin mới. Niềm tin mới cao trọng, bền chặt, vững vàng, luôn tồn tại với thời gian bởi niềm tin này thuộc về Thần Khí. Những gì sinh bởi Thần Khí thì thuộc về Thần Khí Gn 3,7.
Đó là tin vào Đức Kitô Phục Sinh. Ngài đã sống lại từ chõi chết, và những ai tin vào Ngài sẽ không bao giờ chết. Đánh đổi niềm tin trần thế, bám trụ vào niềm tin nước trời, mang lại cuộc sống trường sinh trong nước Chúa. Các môn đệ hoàn toàn phó thác cuộc sống mình cho Đức Kitô. Mặc cho tù đày, tra tấn, ngược đãi, các tông đồ trung thành với Đức Kitô cho đến hơi thở cuối đời.
Khi Đức Kitô bị treo trên thập giá, một người lính cầm đòng đâm cạnh sườn Đức Kitô. Dấu chỉ con tim của Ngài bị tan nát. Cái chết của Đức Kitô cũng làm tan nát con tim của các môn đệ. Thomas đòi xỏ tay vào cạnh sườn Đức Kitô, muốn được đụng chạm đến con tim rách nát đó. Gặp Đức Kitô, Thomas đã không đụng chạm đến con tim rách nát của Đức Kitô; trái lại Đức Kitô chữa lành con tim tan nát của các môn đệ, khi Ngài nói với các ông: 'Bình an cho anh em'. Con tim tan nát không thể có bình an, chỉ con tim mạnh khoẻ mới có bình an. Đức Kitô chữa lành con tin tan nát của các tông bồ, ban cho các ông bình an trong tâm hồn, trong tim vì thế các ông biết con tim của mình được chữa lành. Các ông lòng đầy niềm vui, niềm hy vọng mới vươn lên. Vui mừng vì được gặp lại Thầy Kitô.
TiengChuong.org
Doubt no longer but Believe
The Risen Christ told Thomas: Doubt no longer but believe.... You believe because you can see me. Happy are those who have not seen and yet believe'. (Jn 20,29).
'Doubt no longer but believe' Jesus said to Thomas and to all the apostles and to all of us 'who have never seen and yet believe'.
Jesus directly told Thomas, that He had Risen from death. Before that the other apostles told him, they had seen the Lord. Thomas said: 'Unless I see the holes that the nails made in his hands, and unless I can put my hand into his side, I refuse to believe' (Jn 20,25). What Thomas demanded was extraordinary, because no human could satisfy his request. God alone could, not men.
Benefitting from his request, eight days later, Jesus appeared to the apostles again. Christians, also profited from Thomas' request when Jesus told him: 'happy are those who have not seen and yet believe'. Thomas requested to put his fingers into the holes from where the Roman nailed Jesus to His cross. When the opportunity arrived, Thomas had no courage to do so, but publicly confessed: 'My Lord and my God'.( Jn 20,28). Thomas was not alone in this, all other apostles didn't believe, that Jesus had Risen from the dead. They heard news from the women, who early on the first day of the week, went to the tomb. These women met Jesus, and returned to tell them, but the apostles doubted. However, none of them had the courage to say it aloud. Thomas was the only one who spoke, and earned the name 'The Doubting Thomas'. We thank him for his courage, and for his honesty. He probably was the last apostle to believe in the resurrection of Jesus.
'Doubt no longer but believe' applied to other apostles too, because the apostles had doubted the news from the women, that Jesus had risen. After hearing the report from the women, two of the apostles- Peter and the one Jesus loved- ran to the tomb to test the truth of what the women had said. They saw nothing, except the empty tomb, and the burial linen folded neatly, of him they saw nothing (Lk 24,12). When the apostles saw Jesus at Galilee, some of them believed, others hesitated (Mat 28,17). The Emmaus' account reported, that as two of the apostles returned home, they met Jesus on the road, but didn't recognize him, until they saw him break the bread. Instantly they returned to tell the other apostles, but they didn't believe the two (Mk 16,13).
'Doubt no longer but believe' applies to every one of us. We are blessed because we 'have not seen and yet believe'. Many believe Jesus' teaching is a history. We believe Jesus' teaching is current because faith is a living reality. The question of Jesus' resurrection is undebatable, because it is beyond human capacity to prove or disprove. Thomas asked for it, and none of his friends could satisfy his request. Jesus' apostles preached nothing of their own, but only said what they had seen, and what they had heard from Jesus. Their teaching was authentic to the point that they went through endless pain, and all shed their blood for the faith they dearly believed. The command, 'Go out to the whole world; proclaim the Good News to all creation' (Mk 16,16) is their mission and ours also.
Now is the question of trust. The apostles had three years under Jesus' leadership. Would that be long enough for the apostles to trust each other? Three years of trusting took only one day to destroy. Judas, a trusted apostle, who took charge of the common fund, betrayed Jesus. His betrayal weakened the trust amongst the apostles. Peter once said, 'even if these betray you, I will not' Jn 14,29. Peter failed twenty four hours later. He denied knowing Jesus. If Judas' betrayal weakened the trust amongst the apostles; Peter's weakness completely destroyed their trust for each other. Peter was the leader of the group, and failed to show his fidelity. Others would fall into the same pit. Thomas requiring proof, was reasonable. Meeting them again, Jesus gave them a new hope. The Risen Lord infused His trust in them, and reignited their trust in Him. What the Risen Lord gave was Spirit, 'What is born of the Spirit is spirit' (Jn 3,7).
A new heart - Jesus' heart was broken, because one of the soldiers pierced his side. His death broke the apostles' hearts. Thomas demanded to put his hand on Jesus' broken heart. Instead of him touching Jesus' broken heart, Jesus touched their broken hearts and healed them. Jesus healed His apostles' broken hearts by saying to them 'peace be with you'. A broken heart has no peace, only a healthy heart has peace. Seeing Jesus the apostles' hearts filled with joy- their hearts healed. Alleluia.
Rõ ràng Đức Kitô Phục Sinh trực tiếp nói với Thomas hãy tin là Đức Kitô Phục Sinh. Điều Thomas đòi hỏi ngoài khả năng nhân loại- xỏ tay vào lỗ đinh nơi tay Đức Kitô- không ai có thể làm được, ngoại trừ Đức Kitô. Nhờ ông đòi hỏi mà các môn đệ được gặp lại Đức Kitô Phục Sinh thêm một lần nữa. Cũng nhờ Thomas đòi hỏi mà những ai tin vào Đức Kitô được biết là họ nhận được ân phúc của Thiên Chúa, khi Đức Kitô nói: Phúc cho ai không thấy mà tin. Nhìn thấy Đức Kitô, nghe tiếng Ngài và Ngài nói với Thomas hãy xỏ tay vào lỗ đinh họ đóng vào tay Thầy. Thomas ước ao được làm điều đó nhưng cơ hội đến, Thoma không dám làm điều ông ước mơ và ông vội đáp lại. Lậy Chúa của con; lậy Thiên Chúa của con Jn 20,28. Tất cả các môn đệ đều nghi ngờ tin Đức Kitô sống lại từ cõi chết. Tuy nhiên, không ai nói ra điều đó, ngoại trừ Thomas và vì thế ông được biết đến là Thomas kẻ nghi ngờ. Nhân loại cần cám ơn Thomas cho sự thành thật, can đảm của ông. Rất có thể ông là người môn đệ sau cùng tin là Đức Kitô đã sống lại.
Đối với các môn đệ khác thì sao? Đức Kitô cũng kêu gọi các ông hãy tin và đừng nghi ngờ nữa. Đức Kitô kêu gọi các ông hãy tin, vì trong số các ông đã không tin Đức Kitô sống lại từ cõi chết như những tường thuật của các người khác. Người đầu tiên tường thuật Đức Kitô đã sống lại là các bà đạo đức, tảng sáng ngày hưu lễ đi ra mộ, mang theo hương ướp xác Đức Kitô, các bà đã gặp Ngài và vội vã trở về báo tin cho các môn đệ. Một trong số những người phụ nữ đó là Magdala Mk 16,9-11. Các ông đã nửa tin, nửa ngờ, vội vã chạy ra mộ. Hai người đó là Phêrô và Gioan Lc 24,12. Đức Kitô Phục Sinh hẹn gặp các ông tại Galilê, khi gặp Ngài một số tin bái lậy Ngài, số khác lại hoài nghi Mat 28,17. Hai môn đệ trên đường Emaus cũng nghe các bà phụ nữ tường thuật, nhưng các ông không tin, bỏ các môn đệ khác, trên đường về quê quán. Trên đường đi, các ông gặp Ngài trò truyện, nhưng không nhận ra Ngài, mãi cho đến khi gần tối, lúc tụ họp ăn tối các ông nhận ra cách Ngài bẻ bánh, cùng kiểu cách trong bữa Tiệc Li, đến lúc đó các ông mới nhận ra Ngài. Ngay trong đêm, các ông vội vã trở về báo tin cho các anh em khác, nhưng họ cũng không tin hai ông Mc 16,13. Bởi các ông không tin những tường thuật mắt thấy, tai nghe của các bà phụ nữ, của hai môn đệ trên đường Emau, và của các môn đệ khác nên Đức Kitô nhắc các ông. Hãy tin và đừng nghi ngờ nữa. Ngài đã sống lại thật như điều đã phán hứa. Đối với xã hội hiện nay, nhiều người vẫn không tin vào Đức Kitô Phục Sinh, và như thế điều Đức Kitô mời gọi hãy tin và đừng nghi ngờ nữa áp dụng cho chính chúng ta.
'Phúc cho ai không thấy mà tin' là điều Đức Kitô nói với các thế hệ sau các tông đồ. Đức Kitô kêu gọi các thế hệ sau các tông đồ, hãy tin vào điều các tông đồ rao giảng. Họ rao giảng kinh nghiệm bản thân, rao giảng điều mắt thấy, tai nghe, làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh. Các ngài đã rao giảng, đã viết sách, và đã lấy máu mình làm chứng cho điều các ngài rao giảng.
Chữ tín các môn đệ sống với Đức Kitô trong ba năm, dưới sự hướng dẫn, che chở, đùm bọc của Ngài. Các ông được sai đi rao giảng chung, cùng làm việc chung. Ba năm sống chung chưa dài đủ để tin nhau hay sao? Thực ra, các ông tin tưởng và quí mến nhau. Ba năm xây đắp niềm tin, chỉ cần một ngày niềm tin đó bị phá hủy. Hai biến cố giết chết niềm tin, một là hành động phản bội của Juda, và hai là hành động chối thầy của Phêrô. Juda người được Đức Kitô tin dùng, trao phó cho việc quản lí tài sản chung cho cả nhóm. Ông đã phản bội Đức Kitô, bán Thầy và đó là nguyên nhân chính gây nên đổ nát niềm tin nơi anh em. Juda thống hối. Cái chết của ông không đủ lấy lại niềm tin đang chết nơi các thân hữu. Niềm tin yếu đuối này bị thử thách thêm một lần nữa, và chính lần này giết chết niềm tin nơi các môn đệ. Trong bữa Tiệc Li, Phêrô đã quả quyết với Đức Kitô 'dầu tất cả có vấp ngã, thì con cũng nhất định là không' Jn 14,29. Câu nói chắc chắn trên bị thử thách, và Phêrô đã thất bại trong thử thách. Ông đã chối Thầy. Phêrô được các anh em quí mến, coi như trưởng nhóm vì mọi sự đều do Phêrô trình báo với Đức Kitô, ông đã đoan hứa không bao giờ phản bội, thế nhưng lời hứa đó, trong sợ hãi ông đã thất hứa. Nếu Juda phản bội làm mất lòng tin nơi anh em, thì Phêrô chối Thầy giết chết niềm tin đó. Do vậy, các ông không tin lẫn nhau, và đòi cho được bằng chứng cụ thể, xác minh điều các ông nói. Niềm tin nơi các môn đệ trước đây đặt căn bản trên vật chất, địa vị, danh vọng trần thế. Niềm tin đó bị giết chết. Đức Kitô Phục sinh đến ban cho các ông niềm tin mới. Niềm tin mới cao trọng, bền chặt, vững vàng, luôn tồn tại với thời gian bởi niềm tin này thuộc về Thần Khí. Những gì sinh bởi Thần Khí thì thuộc về Thần Khí Gn 3,7.
Đó là tin vào Đức Kitô Phục Sinh. Ngài đã sống lại từ chõi chết, và những ai tin vào Ngài sẽ không bao giờ chết. Đánh đổi niềm tin trần thế, bám trụ vào niềm tin nước trời, mang lại cuộc sống trường sinh trong nước Chúa. Các môn đệ hoàn toàn phó thác cuộc sống mình cho Đức Kitô. Mặc cho tù đày, tra tấn, ngược đãi, các tông đồ trung thành với Đức Kitô cho đến hơi thở cuối đời.
Khi Đức Kitô bị treo trên thập giá, một người lính cầm đòng đâm cạnh sườn Đức Kitô. Dấu chỉ con tim của Ngài bị tan nát. Cái chết của Đức Kitô cũng làm tan nát con tim của các môn đệ. Thomas đòi xỏ tay vào cạnh sườn Đức Kitô, muốn được đụng chạm đến con tim rách nát đó. Gặp Đức Kitô, Thomas đã không đụng chạm đến con tim rách nát của Đức Kitô; trái lại Đức Kitô chữa lành con tim tan nát của các môn đệ, khi Ngài nói với các ông: 'Bình an cho anh em'. Con tim tan nát không thể có bình an, chỉ con tim mạnh khoẻ mới có bình an. Đức Kitô chữa lành con tin tan nát của các tông bồ, ban cho các ông bình an trong tâm hồn, trong tim vì thế các ông biết con tim của mình được chữa lành. Các ông lòng đầy niềm vui, niềm hy vọng mới vươn lên. Vui mừng vì được gặp lại Thầy Kitô.
TiengChuong.org
Doubt no longer but Believe
The Risen Christ told Thomas: Doubt no longer but believe.... You believe because you can see me. Happy are those who have not seen and yet believe'. (Jn 20,29).
'Doubt no longer but believe' Jesus said to Thomas and to all the apostles and to all of us 'who have never seen and yet believe'.
Jesus directly told Thomas, that He had Risen from death. Before that the other apostles told him, they had seen the Lord. Thomas said: 'Unless I see the holes that the nails made in his hands, and unless I can put my hand into his side, I refuse to believe' (Jn 20,25). What Thomas demanded was extraordinary, because no human could satisfy his request. God alone could, not men.
Benefitting from his request, eight days later, Jesus appeared to the apostles again. Christians, also profited from Thomas' request when Jesus told him: 'happy are those who have not seen and yet believe'. Thomas requested to put his fingers into the holes from where the Roman nailed Jesus to His cross. When the opportunity arrived, Thomas had no courage to do so, but publicly confessed: 'My Lord and my God'.( Jn 20,28). Thomas was not alone in this, all other apostles didn't believe, that Jesus had Risen from the dead. They heard news from the women, who early on the first day of the week, went to the tomb. These women met Jesus, and returned to tell them, but the apostles doubted. However, none of them had the courage to say it aloud. Thomas was the only one who spoke, and earned the name 'The Doubting Thomas'. We thank him for his courage, and for his honesty. He probably was the last apostle to believe in the resurrection of Jesus.
'Doubt no longer but believe' applied to other apostles too, because the apostles had doubted the news from the women, that Jesus had risen. After hearing the report from the women, two of the apostles- Peter and the one Jesus loved- ran to the tomb to test the truth of what the women had said. They saw nothing, except the empty tomb, and the burial linen folded neatly, of him they saw nothing (Lk 24,12). When the apostles saw Jesus at Galilee, some of them believed, others hesitated (Mat 28,17). The Emmaus' account reported, that as two of the apostles returned home, they met Jesus on the road, but didn't recognize him, until they saw him break the bread. Instantly they returned to tell the other apostles, but they didn't believe the two (Mk 16,13).
'Doubt no longer but believe' applies to every one of us. We are blessed because we 'have not seen and yet believe'. Many believe Jesus' teaching is a history. We believe Jesus' teaching is current because faith is a living reality. The question of Jesus' resurrection is undebatable, because it is beyond human capacity to prove or disprove. Thomas asked for it, and none of his friends could satisfy his request. Jesus' apostles preached nothing of their own, but only said what they had seen, and what they had heard from Jesus. Their teaching was authentic to the point that they went through endless pain, and all shed their blood for the faith they dearly believed. The command, 'Go out to the whole world; proclaim the Good News to all creation' (Mk 16,16) is their mission and ours also.
Now is the question of trust. The apostles had three years under Jesus' leadership. Would that be long enough for the apostles to trust each other? Three years of trusting took only one day to destroy. Judas, a trusted apostle, who took charge of the common fund, betrayed Jesus. His betrayal weakened the trust amongst the apostles. Peter once said, 'even if these betray you, I will not' Jn 14,29. Peter failed twenty four hours later. He denied knowing Jesus. If Judas' betrayal weakened the trust amongst the apostles; Peter's weakness completely destroyed their trust for each other. Peter was the leader of the group, and failed to show his fidelity. Others would fall into the same pit. Thomas requiring proof, was reasonable. Meeting them again, Jesus gave them a new hope. The Risen Lord infused His trust in them, and reignited their trust in Him. What the Risen Lord gave was Spirit, 'What is born of the Spirit is spirit' (Jn 3,7).
A new heart - Jesus' heart was broken, because one of the soldiers pierced his side. His death broke the apostles' hearts. Thomas demanded to put his hand on Jesus' broken heart. Instead of him touching Jesus' broken heart, Jesus touched their broken hearts and healed them. Jesus healed His apostles' broken hearts by saying to them 'peace be with you'. A broken heart has no peace, only a healthy heart has peace. Seeing Jesus the apostles' hearts filled with joy- their hearts healed. Alleluia.