Đại Lễ Mừng Chúa Giáng Sinh - B
Is 52, 7-10; Dt 1, 1-6; Ga 1, 1-18.
QÙA GIÁNG SINH
CỦA THIÊN CHÚA CHO CHÚNG TA.
Lm. Mark Link S.J.
Chủ đề: “Đức Giêsu đã đem lại cho thế giới một tin mừng là Thiên Chúa chính là Cha của chúng ta, còn chúng ta là anh em với nhau.”
Cách đây một vài năm, trong cuộc hành trình tới đất Thánh, James Martin mua một bộ tượng Giáng Sinh, trong đó có Chúa Giêsu Hài Đồng, Đức Maria,Thánh Giuse và các mục đồng, Khi Martin tới phi trường Tel Aviv để lên đường trở về Hoa kỳ, thì người ta kiểm soát an toàn hết sức chặt chẽ. Các nhân viên hải quan kiểm soát từng bức tượng một, cả tượng Chúa Giêu Hài Đồng nữa. Viên hải quan xin lỗi Martin: “ chúng tôi không được phép bỏ qua bất cứ một trường hợp nào. Chúng tôi có nhiệm vụ bảo đảm rằng trong bộ tượng này chắc chắn không có chất nổ”. Sau đó, Martin tự nghĩ: “phải chi nhân viên hải quan đó biết được! bộ tượng này hàm chứa môt năng lượng nổ kinh khủng nhất thế giới đấy”.
Năng lượng nổ mà Martin vừa nói tới thì khinh khủng hơn năng lượng nguyên tử của hai nước Hoa kỳ và Sô Viết hợp lại rất nhiều. Năng lượng nổ ấy là gì ?
Đó không phải là năng lượng vô biên của Thiên Chúa đã tạo dựng nên thế giới này trong chớp mắt, và có thể tiêu hủy thế giới này chỉ bằng một cái búng tay. Năng lượng mà Martin nói tới là năng lượng mà Đức Giêsu đem theo khi đến với thế giới này vào đêm Giáng Sinh đầu tiên tại Belem. Đó là một năng lượng không giống bất cứ một năng lượng nào khác mà thế giới đã từng biết được cho tới thời điểm này. Cái năng lượng duy nhất đã được diễn tả qua cách Đức Giêsu đã đến với thế giới này. Ngài đến không phải như một ông hoàng đầy quyền năng sống tại một toà nhà to lớn và sang trọng trong một quốc gia hùng cường nhất thế giới. Ngài đã đến với thế giới như con trai của một bác thợ mộc nghèo nàn, sống tại một căn nhà tồi tàn trong một quốc gia yếu kém nhất thế giới.
Đức Giêsu đã gia nhập thế giới này y như bạn và tôi gia nhập thế giới này vậy: trần truồng, yếu đuối, bơ vơ lạc lõng, dễ bệnh, dễ chết. Giống như mỗi người chúng ta, Ngài phải nhờ đến người khác giúp đỡ săn sóc. Ngài biết đói, biết khát, biết đau. Ngài đã bị nhạo cười, bị hất hủi, và thậm chí phải chịu một cái chết thậm tệ nhất mà con người có thể chịu đựng được, đó là chết tử hình thập gía.
Khi Đức Giêsu đến trong thế giới này, Ngài không được các nhà lãnh đạo thế giới chào mừng, cũng không được các tướng lãnh hay những nhân vật danh tiếng đón chào. Mà Ngài được tiếp đón bởi những mục đồng hôi hám, thuộc giai cấp thấp hèn đến độ lời chứng của họ không được coi là có gía trị trước toà án. Khi Đức Giêsu đến với thế giới này, Ngài đã tự đồng hóa mình với người nghèo, người đau khổ, với dân ngu cu đen, thậm chí với người tội lỗi. Điều đó khiến chúng ta nghĩ tới quyền năng mà Đức Giêsu đã đem theo Ngài theo Ngài vào trong thế giới này.
Cái quyền năng to tát mà Đức Giêsu đem vào trong thế giới này là quyền năng được chứa đựng trong sứ điệp mà Ngài đem theo, một sứ điệp thật là khó tin. Đó là một sứ điệp hai mặt.
Trước hết đó là Tin Mừng báo cho chúng ta biết vị Chúa tể vị đại của trời đất này yêu thương chúng ta, yêu thương từng người trong chúng ta. Thiên Chúa yêu thương chúng ta không trừ ai, và cũng không đòi điều kiện gì. Vị Chúa Tể vĩ đại của trời đất yêu thương chúng ta đến độ để nói với chúng ta Ngài không chỉ gửi một lá thư, cũng không chỉ gửi tới một Thiên sứ của Ngài. Ngài đã quan tâm săn sóc yêu thương chúng ta đến nỗi đã gửi đến cho chúng ta cái tốt đẹp nhất. Ngài đã gửi đến chúng ta chính con trai yêu qúi của Ngài. Và điều này dẫn chúng ta đến mặt sau của sứ điệp mà Đức Giêsu đem vào thế giới này.
Đó là phần thứ hai của Tin Mừng báo cho chúng ta biết rằng Chúa tể trời đất này không chỉ yêu thương chúng ta mà thôi, Ngài còn là Cha của chúng ta nữa, và tất cả chúng ta đều là anh chị em với nhau.
Chính cái sứ điệp lạ lùng này là làm cho một sử gia ngoài Kitô giáo tên là H.G.Wells đã xếp Đức Giêsu là nhân vật thứ nhất đứng đầu toàn bộ những người đã từng sống trên trái đất này. Khi giải thích về việc ông chọn lựa Đức Giêsu , Wells nói:
“Tôi đang nói về Ngài với tư cách một con người…Người viết sử thì phải coi Ngài như một người cũng y như người hoạ sĩ phải vẽ Ngài như một người vậy”.
Wells nói tiếp rằng người viết sử phải coi nhẹ sự kiện này, là có rất nhiều người coi Đức Giêsu là Con Thiên Chúa . Họ sẽ phải bối rối vì những sự kiện không thể chối cãi được ấy đã xẩy ra một cách tự nhiên và được mọi người trên trái đất này chấp nhận, dù tin hay không tin.
Tiếp tục bình luận về sứ điệp của Đức Giêsu, Wells nói: “đó là một trong những thay đổi về quan điểm có tính cách mạng nhất đã từng lay động và biến đổi tư tưởng cả thế giới. Chưa từng có một thời đại nào hiểu thấu được sự thách thức kinh khủng mà sự thay đổi đem lại…Nhưng thế giới đã bắt đầu trở thành một thế giới khác từ ngày mà giáo lý đó được rao giảng”.
Wells nói: điều mà các sử gia dùng để trắc nghiệm về sự vĩ đại của một người là: người ấy đã để lại cho nhân loại những gì mà càng về sau càng phát triển lên ? Người ấy có làm cho dân chúng suy nghĩ theo những chiều hướng hấp dẫn, và những chiều hướng đó vẫn tiếp tục phát triển sau khi người ấy chết không ? Qua trắc nghiệm này, Đức Giêsu đã vượt hẳn tất cả mọi người đã từng sống trên mặt đất này.
Quyền năng tích chứa trong mầu nhiệm Giáng Sinh là quyền năng của một sứ điệp hai mặt mà Đức Giêsu đã đem đến cho thế giới. Sứ điệp dó là Chúa tể trời đất này là người Cha rất yêu thương của chúng ta, và chúng ta là những anh chị em rất thân thương của nhau. Sứ điệp này là món qùa Giáng Sinh của Thiên Chúa tặng mỗi người chúng ta. Và những gì chúng ta làm được với món qùa ấy chính là món qùa mà chúng ta sẽ tặng lên Thiên Chúa.
Điều này khiến chúng ta nghĩ đến sự thách đố của mầu nhiệm Giáng Sinh. Sự thách đố đó được diễn tả gọn gàng và rất nghệ thuật trong bài thơ sau đây do một thi sĩ vô danh sáng tác:
“ Khi bài ca của các Thiên Thần ngừng bặt,
Khi ngôi sao trên bầu trời đã đi khỏi,
Khi các vua chúa và hoàngtử đã ở nhà,
Khi các mục tử cùng đàn súc vật đã trở về,
Thì công việc Giáng Sinh mới bắt đầu;
Để tìm lại những gì đã mất,
để hàn gắn những gì đã gẫy, để người đói được ăn no,
để tù nhân được giải phóng,
để các nước xây dựng lại,
để đem lại hoà bình đến với mọi người,
để hoà nhạc bằng trái tim”.
LỄ ĐÊM
CHỦ ĐỀ :
HÔM NAY, ĐẤNG CỨU ĐỘ ĐÃ ĐẾN VỚI CHÚNG TA
Sợi chỉ đỏ
"Bà sinh con trai đầu lòng"(Lc 2,7)
Minh họa
- Mille images 29 C
- "Bà sinh con trai đầu lòng" (Lc 2,7)
Sợi chỉ đỏ
- Bài đọc I (Is 9,1-6) : "Vì Chúa đã cho một trẻ thơ chào đời"
- Đáp ca (Tv 95) : "Hôm nay Đấng cứu độ chúng ta đã ra đời"
- Tin Mừng (Lc 2,1-14) : "Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con rồi đặt nằm trong máng cỏ"
- Bài đọc II (Ti 2,11-15) : "Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ"
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Đêm nay chúng ta cử hành Thánh lễ mừng Con Thiên Chúa giáng sinh làm người. Giáo Hội cử hành Thánh lễ ban đêm không phải chỉ để sống lại cảm nghiệm của các mục tử xưa đã đến thờ lạy Chúa lúc ban đêm, mà còn muốn làm nổi bật ý nghĩa Đức Giêsu chính là Ánh sáng xóa tan đêm tối trần gian. Nguyện xin ánh sáng Đức Giêsu cũng xóa tan mọi tối tăm u ám trong lòng mỗi người chúng ta.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Nhiều khi chúng ta đã chuộng bóng tối của tội lỗi hơn là ánh sáng của Chúa.
- Cuộc sống của chúng ta chẳng có gương sáng gì tỏa chiếu trước mặt trần gian.
- Đức Giêsu đã muốn làm Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng nhiều khi chúng ta thờ ơ không tiếp đón Ngài để cho Ngài ở cùng.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I : Is 9,1-6
Bối cảnh lịch sử của đoạn này là sau khi quân đội Assyria đã xâm chiếm vương quốc Israel và bắt một phần dân xứ đó đi lưu đày. Họ là "dân tộc bước đi trong u tối", chốn lưu đày đối với họ chính là "miền thâm u của sự chết", những khổ nhục họ phải chịu là "cái ách nặng nề đè trên người, cái gông nằm trên vai và roi vọt của kẻ áp bức"…
Nhưng ngôn sứ Isaia đã tiên báo là họ sẽ được giải thoát : "Dân tộc bước đi trong u tối sẽ nhìn thấy sự sáng chứa chan", những gông ách và roi vọt bị bẻ gãy… Ngôn sứ tin chắc vào tương lai ấy đến nỗi những động từ thay vì ở thì tương lai ("sẽ") đã được ông đổi thành quá khứ ("đã").
Nhân tố tạo nên sự thay đổi tuyệt vời ấy là "Một hài nhi đã sinh ra cho chúng tôi, một người con đã được ban tặng cho chúng tôi". Hài nhi hay người con ấy thời đó là vua Êdêkias. Nhưng Êdêkias không thực hiện được tất cả nội dung của lời tiên tri này : ông không phải là "Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàng, người cha muôn thuở, ông vua thái bình…". Nội dung của lời tiên tri này sẽ chỉ được thực hiện nơi Đức Giêsu mà thôi.
2. Đáp ca : Tv 95
Tv này là một khúc hoan ca mang chiều kích hoàn vũ : "Các tầng trời hãy hoan lạc, trái đất hãy nhảy mừng, biển và muôn loài dưới biển hãy chuyển động, cây cối trong rừng xanh hãy nhảy mừng". Lý do hân hoan là Thiên Chúa đã đến xét xử trần gian và mọi dân tộc trong công bình và chân lý.
3. Tin Mừng : Lc 2,1-14
Đoạn Tin Mừng này giống như một bộ tranh gồm hai bức đối chọi hẳn nhau :
- Phần đầu là bức tranh u tối : đất nước đang sống dưới ách đô hộ của đế quốc Rôma, thánh gia nghèo nàn phải sinh Đức Giêsu trong máng cỏ…
- Phần sau là bức tranh sáng ngời : đoàn thiên sứ báo tin vui, ánh hào quang của Chúa tỏa chiếu, hài nhi được gọi là Đấng cứu tin, tiếng hát thiên thần "vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm".
Với biến cố Đức Giêsu sinh ra, tất cả đã được thay đổi từ tối tăm thành tươi sáng.
4. Bài đọc II : Ti 2,11-15
Đoạn này là một suy tư của Thánh Phaolô về cuộc đời kitô hữu :
- Nguồn gốc của đời kitô hữu là những ân sủng mà Thiên Chúa đã tuôn ban, nhất là qua việc Đức Giêsu nhập thể và cứu độ loài người.
- Mục đích là hướng tới cuộc xuất hiện vinh quang của Đức Giêsu Kitô sau này.
- Giữa hai cực đó là trong hiện tại, kitô hữu phải cố gắng từ bỏ sự gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Hang đá Noel
Dịp lễ Giáng sinh, nhà thờ nào cũng có hang đá. Ở một xứ đạo kia, đa số giáo dân đều giàu, năm nào họ cũng làm một hang đá rất đẹp : Đức Mẹ, Thánh Giuse và nhất là Chúa Hài đồng được trang điểm bằng những bộ y phục rất sang trọng ; ngay cả các mục đồng cũng thế. Nhưng năm nay Cha Xứ là một Linh mục mới được đổi đến. Ngài dọn một hang đá khác hẳn : từ Đức Mẹ, Thánh Giuse, Đức Giêsu cho đến các mục đồng đều ăn mặc rất nghèo nàn. Giáo dân vừa tiếc nuối những hang đá xinh đẹp những năm trước, vừa chưa quen với cảnh nghèo nàn của hang đá năm nay nên không được vui. Tuy nhiên Cha Xứ vẫn giữ nguyên ý định của mình.
Nguồn gốc làm hang đá Giáng sinh xuất phát từ sáng kiến của Thánh Phanxicô Assisi, năm 1223. Mục đích Ngài nhắm là làm cho câu chuyện Giáng sinh trở nên gần gũi với dân chúng, làm sao cho họ hiểu rằng Chúa giáng sinh là để đến gần họ và sống với họ. Bởi thế, gần đến lễ Giáng sinh, Ngài đặt những tượng Chúa, Đức Mẹ, Thánh Giuse v.v. vào một hốc đá trên sườn đồi. Tới ngày áp lễ, dân chúng trong vùng - đa số là nông dân và mục tử - cầm nến hoặc đuốc tập trung trước hang đá. Rồi Thánh Phanxicô giảng cho họ nghe về việc Con Thiên Chúa đến với loài người để dạy cho loài người biết họ là con của Thiên Chúa và Thiên Chúa dành sẵn cho mọi người một số phận vĩnh cửu. Sau đó mọi người trở về nhà, lòng tràn đầy bình an và vui sướng vì cảm thấy mình gần gũi hơn với Chúa và với nhau. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Vui vì đã tin
Có lẽ chúng ta phân bì với các mục tử vì họ được nhìn thấy Chúa Hài đồng bằng cặp mắt của họ, và đụng chạm Chúa Hài đồng bằng đôi tay của họ. Bởi vậy họ tin cách dễ dàng quá. Và chúng ta nghĩ rằng đức tin của chúng ta cũng dễ dàng như vậy nếu như chúng ta được thấy và được chạm tới Chúa như họ.
Tuy nhiên, đừng vội tưởng rằng các mục tử không phải vận dụng tới đức tin. Đành rằng họ có thấy đó, nhưng họ thấy gì ? Họ thấy "một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ". Một đứa trẻ "sơ sinh" nghĩa là rất yếu ớt ; "bọc tã" nghĩa là rất lạnh lẽo ; và "nằm trong máng cỏ" nghĩa là rất nghèo. Họ còn thấy gì nữa ? Thấy "Bà Maria và ông Giuse", hai con người bình thường, hai người lữ hành nghèo không thể tìm được chỗ trong quán trọ đến nỗi phải sinh con trong hang súc vật. Tất cả những cái họ thấy chỉ có thể cho biết đó là một gia đình nghèo vừa mới sinh con. Thế thôi. Vậy mà họ tin rằng đứa bé đó là Đấng cứu thế.
Đức tin của các mục tử không phải do những điều họ thấy, mà do lời thiên sứ nói với họ. Thiên sứ đã bảo họ đứa bé yếu ớt và nghèo nàn ấy chính là Đấng cứu thế. Vì họ tin như thế nên khi thấy Ngài yếu ớt và nghèo nàn thì họ càng mừng rỡ hơn nữa, bởi vì Đấng cứu thế đã làm một người nghèo như họ, gần gũi họ, chia xẻ thân phận của họ. Bởi vậy, khi họ ra về, họ "vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa vì mọi điều họ đã được tai nghe mắt thấy theo như họ đã được loan báo".
Vui mừng là dấu chỉ của Kitô giáo. Niềm vui này tuôn trào trước tiên từ những sự thiện hảo của chính Thiên Chúa, kế đó từ ý thức Thiên Chúa đã yêu thương đối xử nhân lành với chúng ta. Nếu không có Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ không thể hiểu nỗi và không thể chịu nỗi. Khi con người tách lìa khỏi Thiên Chúa thì con người sẽ bị mất mát rất nhiều, phải rơi vào một khoảng trống mênh mông.
Phúc cho những ai cảm nếm được niềm vui của đức tin. Trong ngày lễ Giáng sinh, chúng ta cảm nhận được sự gần gũi thân thiết của Chúa, chúng ta biết rằng Ngài sống với chúng ta, chia xẻ những khổ cực của chúng ta và cứu độ chúng ta. Thế thì còn niềm vui nào bằng ? (Viết theo Flor McCarthy)
* 3. Cô đơn trong ngày lễ Giáng sinh
Đôi khi nghe người ta nói : "Tôi luôn cảm thấy cô đơn trong ngày lễ Giáng sinh".
Có hai lý do chính làm cho người ta thấy cô đơn là "trống" và "vắng".
Hãy dành một chút suy nghĩ, một lời cầu nguyện, và có thể là cuộc thăm viếng cho ai đó đang sống ngày lễ Giáng sinh một mình.
Và nếu sau những việc đó mà chúng ta vẫn còn cảm thấy cô đơn thì chúng ta hãy biết rằng mình đang khao khát một cái gì đó hơn nữa, hay đúng hơn là chúng ta đang khao khát một Đấng nào đó.
Trong con tim mỗi người có một khoảng trống vắng đang chờ một vị khách. Vị khách ấy chính là Thiên Chúa. (Viết theo Flor McCarthy)
Minh hoạ
* 4. Thiên Chúa tìm kiếm con người.
Chuyện kể rằng, có hai người bạn chia tay nhau đi tìm điều quí giá nhất trên đời. Họ hẹn sẽ gặp nhau lại sau khi đã tìm thấy.
Người thứ nhất đi tìm viên ngọc quí. Bất cứ nơi nào bán đá quí, anh đều tìm đến. Cuối cùng, anh cũng mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc quí, anh trở lại quê hương chờ bạn.
Người thứ hai đi tìm Chúa. Anh đi khắp nơi thọ giáo các bậc thánh hiền, cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm nhưng vẫn không tìm được Chúa.
Nhiều năm trôi qua, đang lúc tuyệt vọng, anh nhìn dòng sông lững lờ : một đàn vịt con đang bơi lội tung tăng. Trong khi vịt mẹ tìm con, thì bầy con lại cứ muốn rời mẹ tìm ăn riêng. Vịt mẹ chẳng hề tỏ vẻ giận dữ, cứ lẽo đẽo theo bầy con và gom chúng lại. Thấy cảnh vịt mẹ mãi mê tìm con như thế, anh mỉm cười trở về quê hương.
Khi người bạn hỏi điều quí mà anh đã tìm được là gì khiến gương mặt anh rạng rỡ như thế. Lúc đó, con người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng tâm hồn tràn ngập niềm vui mới thốt lên :
- Điều quí giá mà tôi đã tìm thấy, đó là trong khi tôi đi tìm Chúa, thì chính Người đã đi tìm tôi.
*
"Ngôi Lời Nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga.1,14). Nhiều khi chúng ta tưởng mình đi tìm Chúa, nhưng thật sự là chính Chúa đi tìm chúng ta trước.
Ngay khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đã lên kế hoạch cứu chuộc.
Ngay khi con người phản bội bất trung. Thiên Chúa đã mở lối cho họ quay bước trở về.
Ngay khi con người vô phương cứu lấy chính mình, Thiên Chúa đã sai Con Một đem thân cứu độ.
Đêm nay là đêm giao duyên đất trời, đêm hội hoa đăng, đêm đầy ánh sáng, đêm Thiên Chúa viếng thăm con người. Đúng như thông điệp chứa chan hy vọng của tiên tri Isaia : "Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta và một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta" (Is.9,5).
Con người không thể lên tới Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã xuống với con người. Chúa xuống trần gian để cho trần gian biết đường về trời. Chúa mặc lấy bản tính con người để cho con người trở nên con cái Chúa. Thánh Gioan viết : "Những ai tin ở Người thì Người ban cho quyền được làm con Thiên Chúa" (Ga.1,12).
Giáng sinh là mùa tặng quà : "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người" (x.Ga.3,16). Đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em những gì họ cần thiết nhất, với tất cả lòng yêu quí, trân trọng như chúng ta đang tặng cho chính Hài Nhi Giêsu. Những kẻ nhỏ bé nhất, những người cô độc nhất, những kẻ chịu nhiều đau khổ nhất lại chính là những con người cần được tặng quà nhất. Chúng ta cần chứng tỏ rằng họ đáng kể đối với chúng ta, rằng tên họ chiếm một vị trí trong quả tim chúng ta. Đó chính là quà tặng mà Hài Nhi Giêsu đang mong đợi.
Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao ban vô vị lợi, trao ban không tính toán, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêxa Calcutta định nghĩa : "Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình".
*
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã tìm kiếm chúng con, đã cứu chuộc chúng con, và đã cho chúng con được làm con Chúa.
Xin cho chúng con mau mắn đáp lại tình yêu bao la của Chúa bằng cách yêu thương anh em với tất cả trái tim nồng cháy của chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Nguồn gốc Lễ Giáng sinh
Chúng ta quen kỷ niệm việc Đức Giêsu sinh ra vào ngày 25 tháng 12. Thực ra Chúa sinh ra ngày nào người ta vẫn chưa biết rõ. Ngày 25 tháng 12 chỉ được Giáo Hội Rôma chọn làm lễ Giáng sinh từ năm 300. Lý do như sau :
Ngày xưa, khi nhân loại chưa khám phá ra lửa, mùa đông rất dài và rất tối, bởi vì trong mùa này mặt trời như đi vắng. Tuy nhiên người ta biết rằng tới một ngày nào đó mặt trời sẽ trở lại và cảnh vật sẽ tươi sáng hơn. Thế là người ta đặt ra một Lễ để mừng ngày đó, gọi là Lễ Kính Thần Mặt Trời Vô địch (Sol Invictus).
Để thánh hóa ngày lễ ngoại giáo ấy, Giáo Hội đã chọn chính ngày 25 tháng 12 này làm lễ kỷ niệm Đức Giêsu giáng sinh. Giáo Hội thấy việc Đức Giêsu giáng sinh làm trọn lời tiên tri của ngôn sứ Isaia : "Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng" (Bài đọc I). Chính Đức Giêsu cũng tự giới thiệu mình : "Tôi là ánh sáng thế gian".
Sự thật là như vậy. Nếu Đức Giêsu không đến thì thế giới tối tăm biết chừng nào. Những lời Ngài dạy đúng là một nguồn sáng cho những ai tiếp nhận. Những việc Ngài làm và những cuộc gặp gỡ của Ngài đã đưa vô số người ra khỏi tối tăm bước vào ánh sáng.
Ánh sáng Đức Kitô không chỉ loé lên một lần ở Bêlem rồi tắt ngúm, bởi vì không giống như mặt trời chỉ chiếu sáng trong một khoảng thời gian hạn định, ánh sáng Đức Kitô vẫn tiếp tục tỏa chiếu mãi trong tâm hồn những ai tin Ngài và đi theo Ngài.
* 6. Đấng cứ độ cho tôi
Thiên thần đã loan báo cho các mục tử rằng : "Hôm nay một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em".
- Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Ngôn sứ vĩ đại, là Vua v.v. nhưng trên hết và trước hết Ngài là Đấng cứu độ. Ngài giảng dạy, Ngài làm phép lạ, Ngài sống nêu gương, nói tóm lại tất cả những gì Ngài làm cũng đều nhằm cứu độ.
- Một Đấng Cứu Độ như thế được Thiên Chúa dùng làm quà tặng cho chúng ta, cho chính tôi.
Người ta, có người là bác sĩ, có người là luật sư, có người là kiến trúc sư v.v. Nhưng mặc kệ họ, họ có liên quan gì tới tôi đâu. Tôi không có bệnh nên không cần bác sĩ, tôi không kiện cáo ai và cũng không bị ai kiện cáo nên cũng chẳng cần luật sư, tôi không có nhiều tiền nên kiến trúc sư không xây nhà cho tôi…
Nhưng tôi cần được cứu và Đức Giêsu là Đấng cứu độ được Thiên Chúa gởi đến cho tôi. Tôi cần Ngài và Ngài lúc nào cũng sẵn sàng cứu tôi.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, đêm Noel là đêm thánh vô cùng, là đêm thanh bình, là đêm tình thương giáng thế. Chúng ta hãy vui mừng dâng lên Chúa những lời nguyện cầu đêm Noel.
1. Xin cho Hội thánh và mọi Kitô hữu biết dùng đem Noel này / để loan báo tin vui hòa bình và cứu độ cho mọi người trên thế giới.
2. Xin cho những người có trách nhiệm quốc gia hay quốc tế / biết dùng dịp lễ Noel này để tìm kiếm và duy trì những giải pháp đem lại công lý và hòa bình cho mọi dân tộc.
3. Xin cho những đôi vợ chồng đang chia rẽ, những gia đình bị phân ly, những người đang đau khổ vì chiến tranh huynh đệ tương tàn / được ánh sáng đêm Noel soi / để tìm về hòa giải và sống hiệp thông với nhau.
4. Xin cho anh chị em trong cộng đồng xứ đạo chúng ta đang mừng lễ Noel đêm nay / biết sống một đêm Noel trọn tình nghĩa với Chúa / và chia sẻ niềm vui cho mọi người chung quanh.
Chủ tế : Lạy Chúa, chúng con cảm tạ ơn Chúa vì đang được hưởng đêm thánh huyền diệu này, xin cho ánh sáng đêm Noel chiếu soi vào mọi người chưa biết Chúa, và dẫn lối đưa đường cho họ tìm về hiệp thông với Hội thánh Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô...
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha : Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban Con Một của Ngài sinh xuống làm người ở với chúng ta. Chúng ta hãy lấy hết tình con thảo dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha.
- Sau kinh Lạy Cha : "… cho những ngày chúng con đang sống được bình an, sự bình an mà Cha đã hứa và đã thực sự ban cho loài người trong đêm Con Cha giáng trần… và được an toàn khỏi mọi biến loạn. Xin Cha gìn giữ chúng con luôn sống trong tình nghĩa gia đình với Đức Giêsu là Con Cha và là Anh Cả của chúng con đang khi chúng con đợi chờ ngày hồng phúc…"
VII. GIẢI TÁN
- Dùng công thức long trọng trong Sách Lễ Rôma.
- Thiên Chúa đã làm người để loài người được làm Chúa. Anh chị em hãy sống xứng đáng với hồng ân cao cả này. Chúc anh chị em bình an.
GIÁNG SINH - LỄ RẠNG ĐÔNG
CHỦ ĐỀ :
CHÚA CỨU THẾ ĐÃ SINH RA
"Đến nơi, họ gặp bà Maria, Ông Giuse,
cùng Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ"
(Lc 2,16)
Minh họa
- Mille images 30 C
- "Đến nơi, họ gặp bà Maria, Ông Giuse, cùng Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ" (Lc 2,16)
Sợi chỉ đỏ :
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
"Chúa đã xuống làm người để loài người lên làm Chúa". Thực vậy, mục đích của việc Đức Giêsu giáng sinh là để sống chung với loài người tội lỗi chúng ta và cứu chuộc chúng ta. Ngài đã cho thấy rõ mục đích này khi vừa mới sinh ra : những người khách mời đầu tiên đến hang đá Bêlem chính là những người chăn chiên, nghèo nàn, tội lỗi, bị xã hội khinh chê.
Chúng ta hãy có những tâm tình như các kẻ chăn chiên ấy để đến với Chúa Hài Đồng.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Is 62,11-12)
Bối cảnh của những lời tiên tri này là hoàn cảnh khốn khổ của dân do thái ("thiếu nữ Sion") đang bị lưu đày bên Babylon.
Ngôn sứ Isaia báo cho họ biết rằng "Đấng cứu độ" sẽ đến giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày, làm cho họ trở thành một dân thánh, và thành Giêrusalem của họ sẽ trở nên thành được quý chuộng.
Trong bối cảnh lịch sử ngắn hẹp thời đó, "đấng cứu độ" là Cyrus vua nước Ba Tư. Còn trong lịch sử cứu độ phổ quát, Đấng cứu độ chính là Ngôi Hai Thiên Chúa sinh xuống làm người mang tên là Giêsu.
2. Đáp ca (Tv 96)
Đây là bài chúc tụng vương quyền của Đấng cứu độ. Tầm mức bao la của vương quyền này ("trái đất nhảy mừng, các đảo hân hoan, các tầng trời loan truyền sự công chính của Chúa, mọi dân tộc nhìn thấy vinh quang Người") chỉ có thể thực hiện nơi Đức Giêsu mà thôi.
3. Tin Mừng (Lc 2,15-20)
Bài tường thuật giáng sinh của Thánh Luca có nhiều chi tiết đáng suy gẫm :
4. Bài đọc II (Tt 3,4-7)
Thánh Phaolô tìm hiểu ý nghĩa ơn cứu độ :
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Một Thiên Chúa nghèo
Ngày nay, trong mức độ hoặc nhiều hoặc ít, việc mừng lễ Giáng sinh có phần sang trọng và tốn kém : trang hoàng, tiệc tùng, quà cáp v.v.
Nhưng ngày xưa ở Bêlem thì sao ? Thánh gia rất nghèo, nơi Đức Giêsu sinh ra rất nghèo… Những người nhận được "một Tin Mừng đặc biệt" cũng là những mục tử nghèo chứ không phải là những người Rôma quyền thế hay những cư dân Giêrusalem sang trọng.
Thiên Chúa yêu thương mọi người, Ngài ban Con mình cho mọi người, giàu cũng như nghèo. Nhưng Ngài ưu ái những người nghèo hơn ; và mặt khác những người nghèo dễ nhận ra Ngài hơn.
Muốn sống đúng ý nghĩa lễ Giáng sinh, chúng ta phải có tâm hồn nghèo, phải mở cửa lòng với những người nghèo và nhận ra hình ảnh Thiên Chúa nơi những người nghèo.
* 2. Một Thiên Chúa nhỏ bé
Chúng ta đã quen với hình ảnh một Thiên Chúa to lớn, uy quyền…
Nhưng khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta thấy cụ thể bằng hình hài xương thịt, thì lại là một đứa trẻ nhỏ bé, yếu đuối : không biết nói, không biết làm, không biết tự lo cho mình… Đứa trẻ cần mọi sự nơi người khác : nuôi nấng, chăm sóc, bảo vệ…
Vậy mà trong gia đình, đứa trẻ lại là người được chú ý nhất, có thể nói là uy thế nhất : mọi người từ cha mẹ đến anh chị đều phục vụ cho nó, chịu cực chịu khổ vì nó, tốn kém cho nó, sẵn sàng thay đổi giờ giấc và công việc vì nó… Thật là mầu nhiệm của sự nhỏ bé !
* 3. Ngôi Lời đã trở thành nhục thể
Ngày xưa có một cậu bé được tặng cho một chú lính chì trong dịp lễ Giáng sinh. Cậu rất sung sướng. Nhưng chẳng bao lâu sau cậu nghĩ : giá như có cách gì làm cho chú lính bằng chì này có được sự sống như mình thì hay biết mấy ! Và cũng chẳng bao lâu sau cậu bé lại lưỡng lự : làm cho chú lính này có sự sống tức là biến chú từ chì thành ra xác thịt ; mà như thế không biết chú có chịu hay không, bởi vì khi mang xác thịt thì có thể bị đau, bị thương và nhất là bị chết. Thế là cậu bé không nghĩ tới việc làm cho chú lính chì thành người nữa.
Câu chuyện nhỏ trên giúp ta hiểu mầu nhiệm Chúa nhập thể. Nhập thể là trở nên xác thịt như loài người. Đức Giêsu là Thiên Chúa nhưng đã trở thành một đứa trẻ sơ sinh, và trước khi là một đứa trẻ sơ sinh Ngài còn là một bào thai trong lòng một phụ nữ. Khi nhập thể, Ngài muốn được giống như người phàm, gần gũi với người phàm, chịu đói, chịu khát, chịu đau, chịu chết như người phàm.
Truyền thuyết Ấn giáo xem những vị thần Krishna và Rama là Thượng đế nhập thể. Tuy nhiên những vị thần này không bao giờ chịu khổ và chịu chết. Họ không phải là Thượng đế thực sự thành người, mà chỉ là những hình thái mà Thượng đế tạm mượn để hiện ra cho loài người thấy mà thôi. Còn Đức Giêsu thì khác : Ngài thực sự thành người và cùng chia xẻ mọi yếu đuối khổ đau của loài người.
* 4. Chúa ở cùng chúng ta
Một nhóm người đang trao đổi với nhau những suy nghĩ về ý nghĩa lễ Giáng sinh. Trong nhóm có một phụ nữ ít ai để ý tới, nhưng khi bà chia xẻ thì ai nấy đều chăm chú lắng nghe, vì bà kể về chính cuộc đời của bà.
Bà kể rằng gần đến lễ Giáng sinh thì bà rất sợ hãi, bởi vì bà rất cô đơn. Cha mẹ bà đã mất hết. Bà là đứa con độc nhất, không anh chị em. Bà cũng chẳng còn một người bà con nào cả vì bà là người cuối cùng trong dòng họ. Bạn bè thì bà cũng có, họ có gởi quà hoặc thiệp giáng sinh, nhưng chẳng ai mời bà đến nhà đề cùng gia đình họ mừng lễ Giáng sinh.
Thế thì ngày lễ Giáng sinh bà làm gì ? Sáng sớm Bà đến nhà thờ dự Thánh lễ. Sau lễ, bà đến một hội thiện nguyện giúp họ làm một số việc. Rồi trở về nhà, nấu cơm. Ăn xong, mở TV. Nhưng TV đâu có thay thế được những người thân ở bên cạnh mình, bởi đó bà vừa xem TV vừa khóc. Đến chiều, bà thả bộ dạo phố. Nhưng phố phường ngày lễ Giáng sinh rất vắng lặng, ai nấy đều rút vào mái ấm gia đình. Các cửa tiệm đóng kín cửa. Bà lần bước đến nhà thờ. Nhưng cửa nhà thờ cũng đóng kín. Bà đành trở về nhà, một mình gặm nhắm nỗi cô đơn, ý thức rất rõ mình chẳng có một chỗ nào giữa thành phố đông đảo và mênh mông này.
Nhưng chính lúc đó, bà chợt nghĩ đến câu Tin Mừng : "Hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ". Bà thông cảm với hoàn cảnh hài nhi Giêsu và thấy mình với Ngài rất giống nhau. Ý tưởng ấy làm cho lòng bà ấm lại. Theo bà, ý nghĩa lễ Giáng sinh chính là Thiên Chúa đến chia xẻ thân phận con người.
* 5. Ghi nhớ và suy nghĩ
"Còn Bà Maria thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng"
Trong những dịp Lễ Giáng sinh, chúng ta đã thấy và đã nghe rất nhiều điều. Nhưng các năm trước, tất cả những điều ấy chỉ rộn lên trong một ngày rồi mau chóng chìm vào quên lãng. Lễ Giáng sinh năm nay, chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ "ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng"
* 7. Chuyện minh họa
Vào buổi sáng nọ, người thợ giầy thức giấc rất sớm. Anh quyết định chuẩn bị căn xưởng nhỏ của anh cho tươm tất rồi vào phòng khách chờ đợi cho bằng được người khách quý. Người khách đó không ai khác hơn là chính Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ Ngài đã hiện ra và báo cho anh biết Ngài sẽ đến thăm anh trong ngày hôm sau.
Người thợ giầy ngồi chờ đợi, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Khi những tia nắng sớm vừa rọi qua khung cửa, anh đã nghe được tiếng gõ cửa. Lòng anh hồi hộp sung sướng. Hẳn là Chúa đến. Anh ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đang đứng trước mặt anh không phải là Chúa, mà là người phát thư. Sáng hôm đó là một ngày cuối đông. Cái lạnh đã khiến mặt mũi tay chân người phát thư đỏ như gấc. Người thợ giầy không nỡ để nhân viên bưu điện run lẩy bẩy ngoài cửa. Anh mời ông ta vào nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đứng dậy cám ơn và tiếp tục công việc.
Người thợ giầy lại vào phòng khách chờ Chúa. Nhìn qua cửa sổ, anh thấy một em bé đang khóc sướt mướt trước cửa nhà. Anh gọi nó lại hỏi cớ sự. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và không biết đường về nhà. Người thợ giầy lấy bút viết vài chữ để lại trên bàn, báo cho người khách quý biết mình đã đi ra ngoài. Nhưng tìm đường dẫn đứa bé về nhà đâu phải là chuyện đơn giản và nhanh chóng. Mãi chiều tối anh mới tìm ra nhà đứa bé và khi anh về lại nhà thì phố xá đã lên đèn.
Vừa bước vào nhà, anh đã thấy có người đang đợi anh. Nhưng đó không phải Chúa mà là một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy. Bà cho biết đứa con của bà đang ốm nặng và bà đã không thể chợp mắt suốt đêm qua. Nghe thế, người thợ giầy lại hối hả đến săn sóc đứa bé. Nửa đêm anh mới về nhà, anh để nguyên quần áo và lên giường ngủ.
Thế là một ngày đã qua mà Chúa chưa đến thăm anh. Nhưng đột nhiên trong giấc ngủ, người thợ giầy nghe tiếng Chúa nói với anh : "Cám ơn con đã dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà. Cám ơn con đã săn sóc an ủi Ta. Cám ơn con đã tiếp đón Ta ngày hôm nay" (Trích "Món quà giáng sinh")
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, trong niềm vui lớn lao của Lễ Giáng sinh, kỷ niệm tình thương giáng thế. Chúng ta hãy vui mừng dâng lên Chúa những lời nguyện tha thiết sau đây :
1. Xin cho Hội thánh và mọi Kitô hữu biết dùng lễ Noel này / để loan báo tin vui hòa bình và cứu độ cho mọi người trên thế giới.
2. Xin cho những người có trách nhiệm quốc gia hay quốc tế / biết dùng dịp lễ Noel này để tìm kiếm và duy trì những giải đáp đem lại công lý và hòa bình cho mọi dân tộc.
3. Xin cho những đôi vợ chồng đang chia rẽ, những gia đình bị phân ly, những người đang đau khổ vì chiến tranh huynh đệ tương tàn / được ánh sáng đêm Noel soi / để tìm về hòa giải và sống hiệp thông với nhau.
4. Xin cho anh chị em trong cộng đồng xứ đạo chúng ta đang mừng lễ Noel hôm nay / biết sống một lễ Noel trọn tình nghĩa với Chúa / và chia sẻ niềm vui cho mọi người chung quanh.
CT : Lạy Chúa, chúng con cảm tạ ơn Chúa vì đang được hưởng đem thánh huyền diệu này, xin cho ánh sáng đêm Noel chiếu soi vào mọi người chưa biết Chúa, và dẫn lối đưa đường cho họ tìm về hiệp thông với Hội thánh Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô...
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha : Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban Con Một của Ngài sinh xuống làm người ở với chúng ta. Chúng ta hãy lấy hết tình con thảo dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha.
VII. GIẢI TÁN
Thiên Chúa đã làm người để loài người được làm Chúa. Anh chị em hãy sống xứng đáng với hồng ân cao cả này. Chúc anh chị em bình an.
Is 52, 7-10; Dt 1, 1-6; Ga 1, 1-18.
QÙA GIÁNG SINH
CỦA THIÊN CHÚA CHO CHÚNG TA.
Lm. Mark Link S.J.
Chủ đề: “Đức Giêsu đã đem lại cho thế giới một tin mừng là Thiên Chúa chính là Cha của chúng ta, còn chúng ta là anh em với nhau.”
Cách đây một vài năm, trong cuộc hành trình tới đất Thánh, James Martin mua một bộ tượng Giáng Sinh, trong đó có Chúa Giêsu Hài Đồng, Đức Maria,Thánh Giuse và các mục đồng, Khi Martin tới phi trường Tel Aviv để lên đường trở về Hoa kỳ, thì người ta kiểm soát an toàn hết sức chặt chẽ. Các nhân viên hải quan kiểm soát từng bức tượng một, cả tượng Chúa Giêu Hài Đồng nữa. Viên hải quan xin lỗi Martin: “ chúng tôi không được phép bỏ qua bất cứ một trường hợp nào. Chúng tôi có nhiệm vụ bảo đảm rằng trong bộ tượng này chắc chắn không có chất nổ”. Sau đó, Martin tự nghĩ: “phải chi nhân viên hải quan đó biết được! bộ tượng này hàm chứa môt năng lượng nổ kinh khủng nhất thế giới đấy”.
Năng lượng nổ mà Martin vừa nói tới thì khinh khủng hơn năng lượng nguyên tử của hai nước Hoa kỳ và Sô Viết hợp lại rất nhiều. Năng lượng nổ ấy là gì ?
Đó không phải là năng lượng vô biên của Thiên Chúa đã tạo dựng nên thế giới này trong chớp mắt, và có thể tiêu hủy thế giới này chỉ bằng một cái búng tay. Năng lượng mà Martin nói tới là năng lượng mà Đức Giêsu đem theo khi đến với thế giới này vào đêm Giáng Sinh đầu tiên tại Belem. Đó là một năng lượng không giống bất cứ một năng lượng nào khác mà thế giới đã từng biết được cho tới thời điểm này. Cái năng lượng duy nhất đã được diễn tả qua cách Đức Giêsu đã đến với thế giới này. Ngài đến không phải như một ông hoàng đầy quyền năng sống tại một toà nhà to lớn và sang trọng trong một quốc gia hùng cường nhất thế giới. Ngài đã đến với thế giới như con trai của một bác thợ mộc nghèo nàn, sống tại một căn nhà tồi tàn trong một quốc gia yếu kém nhất thế giới.
Đức Giêsu đã gia nhập thế giới này y như bạn và tôi gia nhập thế giới này vậy: trần truồng, yếu đuối, bơ vơ lạc lõng, dễ bệnh, dễ chết. Giống như mỗi người chúng ta, Ngài phải nhờ đến người khác giúp đỡ săn sóc. Ngài biết đói, biết khát, biết đau. Ngài đã bị nhạo cười, bị hất hủi, và thậm chí phải chịu một cái chết thậm tệ nhất mà con người có thể chịu đựng được, đó là chết tử hình thập gía.
Khi Đức Giêsu đến trong thế giới này, Ngài không được các nhà lãnh đạo thế giới chào mừng, cũng không được các tướng lãnh hay những nhân vật danh tiếng đón chào. Mà Ngài được tiếp đón bởi những mục đồng hôi hám, thuộc giai cấp thấp hèn đến độ lời chứng của họ không được coi là có gía trị trước toà án. Khi Đức Giêsu đến với thế giới này, Ngài đã tự đồng hóa mình với người nghèo, người đau khổ, với dân ngu cu đen, thậm chí với người tội lỗi. Điều đó khiến chúng ta nghĩ tới quyền năng mà Đức Giêsu đã đem theo Ngài theo Ngài vào trong thế giới này.
Cái quyền năng to tát mà Đức Giêsu đem vào trong thế giới này là quyền năng được chứa đựng trong sứ điệp mà Ngài đem theo, một sứ điệp thật là khó tin. Đó là một sứ điệp hai mặt.
Trước hết đó là Tin Mừng báo cho chúng ta biết vị Chúa tể vị đại của trời đất này yêu thương chúng ta, yêu thương từng người trong chúng ta. Thiên Chúa yêu thương chúng ta không trừ ai, và cũng không đòi điều kiện gì. Vị Chúa Tể vĩ đại của trời đất yêu thương chúng ta đến độ để nói với chúng ta Ngài không chỉ gửi một lá thư, cũng không chỉ gửi tới một Thiên sứ của Ngài. Ngài đã quan tâm săn sóc yêu thương chúng ta đến nỗi đã gửi đến cho chúng ta cái tốt đẹp nhất. Ngài đã gửi đến chúng ta chính con trai yêu qúi của Ngài. Và điều này dẫn chúng ta đến mặt sau của sứ điệp mà Đức Giêsu đem vào thế giới này.
Đó là phần thứ hai của Tin Mừng báo cho chúng ta biết rằng Chúa tể trời đất này không chỉ yêu thương chúng ta mà thôi, Ngài còn là Cha của chúng ta nữa, và tất cả chúng ta đều là anh chị em với nhau.
Chính cái sứ điệp lạ lùng này là làm cho một sử gia ngoài Kitô giáo tên là H.G.Wells đã xếp Đức Giêsu là nhân vật thứ nhất đứng đầu toàn bộ những người đã từng sống trên trái đất này. Khi giải thích về việc ông chọn lựa Đức Giêsu , Wells nói:
“Tôi đang nói về Ngài với tư cách một con người…Người viết sử thì phải coi Ngài như một người cũng y như người hoạ sĩ phải vẽ Ngài như một người vậy”.
Wells nói tiếp rằng người viết sử phải coi nhẹ sự kiện này, là có rất nhiều người coi Đức Giêsu là Con Thiên Chúa . Họ sẽ phải bối rối vì những sự kiện không thể chối cãi được ấy đã xẩy ra một cách tự nhiên và được mọi người trên trái đất này chấp nhận, dù tin hay không tin.
Tiếp tục bình luận về sứ điệp của Đức Giêsu, Wells nói: “đó là một trong những thay đổi về quan điểm có tính cách mạng nhất đã từng lay động và biến đổi tư tưởng cả thế giới. Chưa từng có một thời đại nào hiểu thấu được sự thách thức kinh khủng mà sự thay đổi đem lại…Nhưng thế giới đã bắt đầu trở thành một thế giới khác từ ngày mà giáo lý đó được rao giảng”.
Wells nói: điều mà các sử gia dùng để trắc nghiệm về sự vĩ đại của một người là: người ấy đã để lại cho nhân loại những gì mà càng về sau càng phát triển lên ? Người ấy có làm cho dân chúng suy nghĩ theo những chiều hướng hấp dẫn, và những chiều hướng đó vẫn tiếp tục phát triển sau khi người ấy chết không ? Qua trắc nghiệm này, Đức Giêsu đã vượt hẳn tất cả mọi người đã từng sống trên mặt đất này.
Quyền năng tích chứa trong mầu nhiệm Giáng Sinh là quyền năng của một sứ điệp hai mặt mà Đức Giêsu đã đem đến cho thế giới. Sứ điệp dó là Chúa tể trời đất này là người Cha rất yêu thương của chúng ta, và chúng ta là những anh chị em rất thân thương của nhau. Sứ điệp này là món qùa Giáng Sinh của Thiên Chúa tặng mỗi người chúng ta. Và những gì chúng ta làm được với món qùa ấy chính là món qùa mà chúng ta sẽ tặng lên Thiên Chúa.
Điều này khiến chúng ta nghĩ đến sự thách đố của mầu nhiệm Giáng Sinh. Sự thách đố đó được diễn tả gọn gàng và rất nghệ thuật trong bài thơ sau đây do một thi sĩ vô danh sáng tác:
“ Khi bài ca của các Thiên Thần ngừng bặt,
Khi ngôi sao trên bầu trời đã đi khỏi,
Khi các vua chúa và hoàngtử đã ở nhà,
Khi các mục tử cùng đàn súc vật đã trở về,
Thì công việc Giáng Sinh mới bắt đầu;
Để tìm lại những gì đã mất,
để hàn gắn những gì đã gẫy, để người đói được ăn no,
để tù nhân được giải phóng,
để các nước xây dựng lại,
để đem lại hoà bình đến với mọi người,
để hoà nhạc bằng trái tim”.
LỄ ĐÊM
CHỦ ĐỀ :
HÔM NAY, ĐẤNG CỨU ĐỘ ĐÃ ĐẾN VỚI CHÚNG TA
Sợi chỉ đỏ
"Bà sinh con trai đầu lòng"(Lc 2,7)
Minh họa
- Mille images 29 C
- "Bà sinh con trai đầu lòng" (Lc 2,7)
Sợi chỉ đỏ
- Bài đọc I (Is 9,1-6) : "Vì Chúa đã cho một trẻ thơ chào đời"
- Đáp ca (Tv 95) : "Hôm nay Đấng cứu độ chúng ta đã ra đời"
- Tin Mừng (Lc 2,1-14) : "Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con rồi đặt nằm trong máng cỏ"
- Bài đọc II (Ti 2,11-15) : "Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ"
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Đêm nay chúng ta cử hành Thánh lễ mừng Con Thiên Chúa giáng sinh làm người. Giáo Hội cử hành Thánh lễ ban đêm không phải chỉ để sống lại cảm nghiệm của các mục tử xưa đã đến thờ lạy Chúa lúc ban đêm, mà còn muốn làm nổi bật ý nghĩa Đức Giêsu chính là Ánh sáng xóa tan đêm tối trần gian. Nguyện xin ánh sáng Đức Giêsu cũng xóa tan mọi tối tăm u ám trong lòng mỗi người chúng ta.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Nhiều khi chúng ta đã chuộng bóng tối của tội lỗi hơn là ánh sáng của Chúa.
- Cuộc sống của chúng ta chẳng có gương sáng gì tỏa chiếu trước mặt trần gian.
- Đức Giêsu đã muốn làm Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng nhiều khi chúng ta thờ ơ không tiếp đón Ngài để cho Ngài ở cùng.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I : Is 9,1-6
Bối cảnh lịch sử của đoạn này là sau khi quân đội Assyria đã xâm chiếm vương quốc Israel và bắt một phần dân xứ đó đi lưu đày. Họ là "dân tộc bước đi trong u tối", chốn lưu đày đối với họ chính là "miền thâm u của sự chết", những khổ nhục họ phải chịu là "cái ách nặng nề đè trên người, cái gông nằm trên vai và roi vọt của kẻ áp bức"…
Nhưng ngôn sứ Isaia đã tiên báo là họ sẽ được giải thoát : "Dân tộc bước đi trong u tối sẽ nhìn thấy sự sáng chứa chan", những gông ách và roi vọt bị bẻ gãy… Ngôn sứ tin chắc vào tương lai ấy đến nỗi những động từ thay vì ở thì tương lai ("sẽ") đã được ông đổi thành quá khứ ("đã").
Nhân tố tạo nên sự thay đổi tuyệt vời ấy là "Một hài nhi đã sinh ra cho chúng tôi, một người con đã được ban tặng cho chúng tôi". Hài nhi hay người con ấy thời đó là vua Êdêkias. Nhưng Êdêkias không thực hiện được tất cả nội dung của lời tiên tri này : ông không phải là "Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàng, người cha muôn thuở, ông vua thái bình…". Nội dung của lời tiên tri này sẽ chỉ được thực hiện nơi Đức Giêsu mà thôi.
2. Đáp ca : Tv 95
Tv này là một khúc hoan ca mang chiều kích hoàn vũ : "Các tầng trời hãy hoan lạc, trái đất hãy nhảy mừng, biển và muôn loài dưới biển hãy chuyển động, cây cối trong rừng xanh hãy nhảy mừng". Lý do hân hoan là Thiên Chúa đã đến xét xử trần gian và mọi dân tộc trong công bình và chân lý.
3. Tin Mừng : Lc 2,1-14
Đoạn Tin Mừng này giống như một bộ tranh gồm hai bức đối chọi hẳn nhau :
- Phần đầu là bức tranh u tối : đất nước đang sống dưới ách đô hộ của đế quốc Rôma, thánh gia nghèo nàn phải sinh Đức Giêsu trong máng cỏ…
- Phần sau là bức tranh sáng ngời : đoàn thiên sứ báo tin vui, ánh hào quang của Chúa tỏa chiếu, hài nhi được gọi là Đấng cứu tin, tiếng hát thiên thần "vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm".
Với biến cố Đức Giêsu sinh ra, tất cả đã được thay đổi từ tối tăm thành tươi sáng.
4. Bài đọc II : Ti 2,11-15
Đoạn này là một suy tư của Thánh Phaolô về cuộc đời kitô hữu :
- Nguồn gốc của đời kitô hữu là những ân sủng mà Thiên Chúa đã tuôn ban, nhất là qua việc Đức Giêsu nhập thể và cứu độ loài người.
- Mục đích là hướng tới cuộc xuất hiện vinh quang của Đức Giêsu Kitô sau này.
- Giữa hai cực đó là trong hiện tại, kitô hữu phải cố gắng từ bỏ sự gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Hang đá Noel
Dịp lễ Giáng sinh, nhà thờ nào cũng có hang đá. Ở một xứ đạo kia, đa số giáo dân đều giàu, năm nào họ cũng làm một hang đá rất đẹp : Đức Mẹ, Thánh Giuse và nhất là Chúa Hài đồng được trang điểm bằng những bộ y phục rất sang trọng ; ngay cả các mục đồng cũng thế. Nhưng năm nay Cha Xứ là một Linh mục mới được đổi đến. Ngài dọn một hang đá khác hẳn : từ Đức Mẹ, Thánh Giuse, Đức Giêsu cho đến các mục đồng đều ăn mặc rất nghèo nàn. Giáo dân vừa tiếc nuối những hang đá xinh đẹp những năm trước, vừa chưa quen với cảnh nghèo nàn của hang đá năm nay nên không được vui. Tuy nhiên Cha Xứ vẫn giữ nguyên ý định của mình.
Nguồn gốc làm hang đá Giáng sinh xuất phát từ sáng kiến của Thánh Phanxicô Assisi, năm 1223. Mục đích Ngài nhắm là làm cho câu chuyện Giáng sinh trở nên gần gũi với dân chúng, làm sao cho họ hiểu rằng Chúa giáng sinh là để đến gần họ và sống với họ. Bởi thế, gần đến lễ Giáng sinh, Ngài đặt những tượng Chúa, Đức Mẹ, Thánh Giuse v.v. vào một hốc đá trên sườn đồi. Tới ngày áp lễ, dân chúng trong vùng - đa số là nông dân và mục tử - cầm nến hoặc đuốc tập trung trước hang đá. Rồi Thánh Phanxicô giảng cho họ nghe về việc Con Thiên Chúa đến với loài người để dạy cho loài người biết họ là con của Thiên Chúa và Thiên Chúa dành sẵn cho mọi người một số phận vĩnh cửu. Sau đó mọi người trở về nhà, lòng tràn đầy bình an và vui sướng vì cảm thấy mình gần gũi hơn với Chúa và với nhau. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Vui vì đã tin
Có lẽ chúng ta phân bì với các mục tử vì họ được nhìn thấy Chúa Hài đồng bằng cặp mắt của họ, và đụng chạm Chúa Hài đồng bằng đôi tay của họ. Bởi vậy họ tin cách dễ dàng quá. Và chúng ta nghĩ rằng đức tin của chúng ta cũng dễ dàng như vậy nếu như chúng ta được thấy và được chạm tới Chúa như họ.
Tuy nhiên, đừng vội tưởng rằng các mục tử không phải vận dụng tới đức tin. Đành rằng họ có thấy đó, nhưng họ thấy gì ? Họ thấy "một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ". Một đứa trẻ "sơ sinh" nghĩa là rất yếu ớt ; "bọc tã" nghĩa là rất lạnh lẽo ; và "nằm trong máng cỏ" nghĩa là rất nghèo. Họ còn thấy gì nữa ? Thấy "Bà Maria và ông Giuse", hai con người bình thường, hai người lữ hành nghèo không thể tìm được chỗ trong quán trọ đến nỗi phải sinh con trong hang súc vật. Tất cả những cái họ thấy chỉ có thể cho biết đó là một gia đình nghèo vừa mới sinh con. Thế thôi. Vậy mà họ tin rằng đứa bé đó là Đấng cứu thế.
Đức tin của các mục tử không phải do những điều họ thấy, mà do lời thiên sứ nói với họ. Thiên sứ đã bảo họ đứa bé yếu ớt và nghèo nàn ấy chính là Đấng cứu thế. Vì họ tin như thế nên khi thấy Ngài yếu ớt và nghèo nàn thì họ càng mừng rỡ hơn nữa, bởi vì Đấng cứu thế đã làm một người nghèo như họ, gần gũi họ, chia xẻ thân phận của họ. Bởi vậy, khi họ ra về, họ "vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa vì mọi điều họ đã được tai nghe mắt thấy theo như họ đã được loan báo".
Vui mừng là dấu chỉ của Kitô giáo. Niềm vui này tuôn trào trước tiên từ những sự thiện hảo của chính Thiên Chúa, kế đó từ ý thức Thiên Chúa đã yêu thương đối xử nhân lành với chúng ta. Nếu không có Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ không thể hiểu nỗi và không thể chịu nỗi. Khi con người tách lìa khỏi Thiên Chúa thì con người sẽ bị mất mát rất nhiều, phải rơi vào một khoảng trống mênh mông.
Phúc cho những ai cảm nếm được niềm vui của đức tin. Trong ngày lễ Giáng sinh, chúng ta cảm nhận được sự gần gũi thân thiết của Chúa, chúng ta biết rằng Ngài sống với chúng ta, chia xẻ những khổ cực của chúng ta và cứu độ chúng ta. Thế thì còn niềm vui nào bằng ? (Viết theo Flor McCarthy)
* 3. Cô đơn trong ngày lễ Giáng sinh
Đôi khi nghe người ta nói : "Tôi luôn cảm thấy cô đơn trong ngày lễ Giáng sinh".
Có hai lý do chính làm cho người ta thấy cô đơn là "trống" và "vắng".
Hãy dành một chút suy nghĩ, một lời cầu nguyện, và có thể là cuộc thăm viếng cho ai đó đang sống ngày lễ Giáng sinh một mình.
Và nếu sau những việc đó mà chúng ta vẫn còn cảm thấy cô đơn thì chúng ta hãy biết rằng mình đang khao khát một cái gì đó hơn nữa, hay đúng hơn là chúng ta đang khao khát một Đấng nào đó.
Trong con tim mỗi người có một khoảng trống vắng đang chờ một vị khách. Vị khách ấy chính là Thiên Chúa. (Viết theo Flor McCarthy)
Minh hoạ
* 4. Thiên Chúa tìm kiếm con người.
Chuyện kể rằng, có hai người bạn chia tay nhau đi tìm điều quí giá nhất trên đời. Họ hẹn sẽ gặp nhau lại sau khi đã tìm thấy.
Người thứ nhất đi tìm viên ngọc quí. Bất cứ nơi nào bán đá quí, anh đều tìm đến. Cuối cùng, anh cũng mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc quí, anh trở lại quê hương chờ bạn.
Người thứ hai đi tìm Chúa. Anh đi khắp nơi thọ giáo các bậc thánh hiền, cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm nhưng vẫn không tìm được Chúa.
Nhiều năm trôi qua, đang lúc tuyệt vọng, anh nhìn dòng sông lững lờ : một đàn vịt con đang bơi lội tung tăng. Trong khi vịt mẹ tìm con, thì bầy con lại cứ muốn rời mẹ tìm ăn riêng. Vịt mẹ chẳng hề tỏ vẻ giận dữ, cứ lẽo đẽo theo bầy con và gom chúng lại. Thấy cảnh vịt mẹ mãi mê tìm con như thế, anh mỉm cười trở về quê hương.
Khi người bạn hỏi điều quí mà anh đã tìm được là gì khiến gương mặt anh rạng rỡ như thế. Lúc đó, con người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng tâm hồn tràn ngập niềm vui mới thốt lên :
- Điều quí giá mà tôi đã tìm thấy, đó là trong khi tôi đi tìm Chúa, thì chính Người đã đi tìm tôi.
*
"Ngôi Lời Nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga.1,14). Nhiều khi chúng ta tưởng mình đi tìm Chúa, nhưng thật sự là chính Chúa đi tìm chúng ta trước.
Ngay khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đã lên kế hoạch cứu chuộc.
Ngay khi con người phản bội bất trung. Thiên Chúa đã mở lối cho họ quay bước trở về.
Ngay khi con người vô phương cứu lấy chính mình, Thiên Chúa đã sai Con Một đem thân cứu độ.
Đêm nay là đêm giao duyên đất trời, đêm hội hoa đăng, đêm đầy ánh sáng, đêm Thiên Chúa viếng thăm con người. Đúng như thông điệp chứa chan hy vọng của tiên tri Isaia : "Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta và một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta" (Is.9,5).
Con người không thể lên tới Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã xuống với con người. Chúa xuống trần gian để cho trần gian biết đường về trời. Chúa mặc lấy bản tính con người để cho con người trở nên con cái Chúa. Thánh Gioan viết : "Những ai tin ở Người thì Người ban cho quyền được làm con Thiên Chúa" (Ga.1,12).
Giáng sinh là mùa tặng quà : "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người" (x.Ga.3,16). Đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em những gì họ cần thiết nhất, với tất cả lòng yêu quí, trân trọng như chúng ta đang tặng cho chính Hài Nhi Giêsu. Những kẻ nhỏ bé nhất, những người cô độc nhất, những kẻ chịu nhiều đau khổ nhất lại chính là những con người cần được tặng quà nhất. Chúng ta cần chứng tỏ rằng họ đáng kể đối với chúng ta, rằng tên họ chiếm một vị trí trong quả tim chúng ta. Đó chính là quà tặng mà Hài Nhi Giêsu đang mong đợi.
Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao ban vô vị lợi, trao ban không tính toán, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêxa Calcutta định nghĩa : "Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình".
*
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã tìm kiếm chúng con, đã cứu chuộc chúng con, và đã cho chúng con được làm con Chúa.
Xin cho chúng con mau mắn đáp lại tình yêu bao la của Chúa bằng cách yêu thương anh em với tất cả trái tim nồng cháy của chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Nguồn gốc Lễ Giáng sinh
Chúng ta quen kỷ niệm việc Đức Giêsu sinh ra vào ngày 25 tháng 12. Thực ra Chúa sinh ra ngày nào người ta vẫn chưa biết rõ. Ngày 25 tháng 12 chỉ được Giáo Hội Rôma chọn làm lễ Giáng sinh từ năm 300. Lý do như sau :
Ngày xưa, khi nhân loại chưa khám phá ra lửa, mùa đông rất dài và rất tối, bởi vì trong mùa này mặt trời như đi vắng. Tuy nhiên người ta biết rằng tới một ngày nào đó mặt trời sẽ trở lại và cảnh vật sẽ tươi sáng hơn. Thế là người ta đặt ra một Lễ để mừng ngày đó, gọi là Lễ Kính Thần Mặt Trời Vô địch (Sol Invictus).
Để thánh hóa ngày lễ ngoại giáo ấy, Giáo Hội đã chọn chính ngày 25 tháng 12 này làm lễ kỷ niệm Đức Giêsu giáng sinh. Giáo Hội thấy việc Đức Giêsu giáng sinh làm trọn lời tiên tri của ngôn sứ Isaia : "Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng" (Bài đọc I). Chính Đức Giêsu cũng tự giới thiệu mình : "Tôi là ánh sáng thế gian".
Sự thật là như vậy. Nếu Đức Giêsu không đến thì thế giới tối tăm biết chừng nào. Những lời Ngài dạy đúng là một nguồn sáng cho những ai tiếp nhận. Những việc Ngài làm và những cuộc gặp gỡ của Ngài đã đưa vô số người ra khỏi tối tăm bước vào ánh sáng.
Ánh sáng Đức Kitô không chỉ loé lên một lần ở Bêlem rồi tắt ngúm, bởi vì không giống như mặt trời chỉ chiếu sáng trong một khoảng thời gian hạn định, ánh sáng Đức Kitô vẫn tiếp tục tỏa chiếu mãi trong tâm hồn những ai tin Ngài và đi theo Ngài.
* 6. Đấng cứ độ cho tôi
Thiên thần đã loan báo cho các mục tử rằng : "Hôm nay một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em".
- Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Ngôn sứ vĩ đại, là Vua v.v. nhưng trên hết và trước hết Ngài là Đấng cứu độ. Ngài giảng dạy, Ngài làm phép lạ, Ngài sống nêu gương, nói tóm lại tất cả những gì Ngài làm cũng đều nhằm cứu độ.
- Một Đấng Cứu Độ như thế được Thiên Chúa dùng làm quà tặng cho chúng ta, cho chính tôi.
Người ta, có người là bác sĩ, có người là luật sư, có người là kiến trúc sư v.v. Nhưng mặc kệ họ, họ có liên quan gì tới tôi đâu. Tôi không có bệnh nên không cần bác sĩ, tôi không kiện cáo ai và cũng không bị ai kiện cáo nên cũng chẳng cần luật sư, tôi không có nhiều tiền nên kiến trúc sư không xây nhà cho tôi…
Nhưng tôi cần được cứu và Đức Giêsu là Đấng cứu độ được Thiên Chúa gởi đến cho tôi. Tôi cần Ngài và Ngài lúc nào cũng sẵn sàng cứu tôi.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, đêm Noel là đêm thánh vô cùng, là đêm thanh bình, là đêm tình thương giáng thế. Chúng ta hãy vui mừng dâng lên Chúa những lời nguyện cầu đêm Noel.
1. Xin cho Hội thánh và mọi Kitô hữu biết dùng đem Noel này / để loan báo tin vui hòa bình và cứu độ cho mọi người trên thế giới.
2. Xin cho những người có trách nhiệm quốc gia hay quốc tế / biết dùng dịp lễ Noel này để tìm kiếm và duy trì những giải pháp đem lại công lý và hòa bình cho mọi dân tộc.
3. Xin cho những đôi vợ chồng đang chia rẽ, những gia đình bị phân ly, những người đang đau khổ vì chiến tranh huynh đệ tương tàn / được ánh sáng đêm Noel soi / để tìm về hòa giải và sống hiệp thông với nhau.
4. Xin cho anh chị em trong cộng đồng xứ đạo chúng ta đang mừng lễ Noel đêm nay / biết sống một đêm Noel trọn tình nghĩa với Chúa / và chia sẻ niềm vui cho mọi người chung quanh.
Chủ tế : Lạy Chúa, chúng con cảm tạ ơn Chúa vì đang được hưởng đêm thánh huyền diệu này, xin cho ánh sáng đêm Noel chiếu soi vào mọi người chưa biết Chúa, và dẫn lối đưa đường cho họ tìm về hiệp thông với Hội thánh Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô...
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha : Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban Con Một của Ngài sinh xuống làm người ở với chúng ta. Chúng ta hãy lấy hết tình con thảo dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha.
- Sau kinh Lạy Cha : "… cho những ngày chúng con đang sống được bình an, sự bình an mà Cha đã hứa và đã thực sự ban cho loài người trong đêm Con Cha giáng trần… và được an toàn khỏi mọi biến loạn. Xin Cha gìn giữ chúng con luôn sống trong tình nghĩa gia đình với Đức Giêsu là Con Cha và là Anh Cả của chúng con đang khi chúng con đợi chờ ngày hồng phúc…"
VII. GIẢI TÁN
- Dùng công thức long trọng trong Sách Lễ Rôma.
- Thiên Chúa đã làm người để loài người được làm Chúa. Anh chị em hãy sống xứng đáng với hồng ân cao cả này. Chúc anh chị em bình an.
GIÁNG SINH - LỄ RẠNG ĐÔNG
CHỦ ĐỀ :
CHÚA CỨU THẾ ĐÃ SINH RA
"Đến nơi, họ gặp bà Maria, Ông Giuse,
cùng Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ"
(Lc 2,16)
Minh họa
- Mille images 30 C
- "Đến nơi, họ gặp bà Maria, Ông Giuse, cùng Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ" (Lc 2,16)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I (Is 62,11-12) : "Này đây Đấng cứu độ ngươi đến"
- Đáp ca (Tv 96) : "Hôm nay sự sáng chiếu giãi trên chúng ta, và Chúa đã giáng sinh cho chúng ta"
- Tin Mừng (Lc 2,15-20) : "Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài nhi"
- Bài đọc II (Tt 3,4-7) : "Chúa đã cứu độ chúng ta theo lượng từ bi Người"
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
"Chúa đã xuống làm người để loài người lên làm Chúa". Thực vậy, mục đích của việc Đức Giêsu giáng sinh là để sống chung với loài người tội lỗi chúng ta và cứu chuộc chúng ta. Ngài đã cho thấy rõ mục đích này khi vừa mới sinh ra : những người khách mời đầu tiên đến hang đá Bêlem chính là những người chăn chiên, nghèo nàn, tội lỗi, bị xã hội khinh chê.
Chúng ta hãy có những tâm tình như các kẻ chăn chiên ấy để đến với Chúa Hài Đồng.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Trong Mùa Vọng, chúng ta chỉ lo chuẩn bị bề ngoài mà chưa chuẩn bị tâm hồn cho đủ để xứng đáng đón rước Chúa.
- Chúa Cứu Thế đã mang lấy thân phận của một người nghèo. Vậy mà từ trước tới nay chúng ta thường coi khinh những người nghèo.
- Chúa Cứu Thế là ánh sáng của sự lành và sự thiện. Vậy mà từ trước tới nay nhiều lần chúng ta trốn lánh ánh sáng để ngụp lặn trong bóng tối của tội lỗi
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Is 62,11-12)
Bối cảnh của những lời tiên tri này là hoàn cảnh khốn khổ của dân do thái ("thiếu nữ Sion") đang bị lưu đày bên Babylon.
Ngôn sứ Isaia báo cho họ biết rằng "Đấng cứu độ" sẽ đến giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày, làm cho họ trở thành một dân thánh, và thành Giêrusalem của họ sẽ trở nên thành được quý chuộng.
Trong bối cảnh lịch sử ngắn hẹp thời đó, "đấng cứu độ" là Cyrus vua nước Ba Tư. Còn trong lịch sử cứu độ phổ quát, Đấng cứu độ chính là Ngôi Hai Thiên Chúa sinh xuống làm người mang tên là Giêsu.
2. Đáp ca (Tv 96)
Đây là bài chúc tụng vương quyền của Đấng cứu độ. Tầm mức bao la của vương quyền này ("trái đất nhảy mừng, các đảo hân hoan, các tầng trời loan truyền sự công chính của Chúa, mọi dân tộc nhìn thấy vinh quang Người") chỉ có thể thực hiện nơi Đức Giêsu mà thôi.
3. Tin Mừng (Lc 2,15-20)
Bài tường thuật giáng sinh của Thánh Luca có nhiều chi tiết đáng suy gẫm :
- Những kẻ đầu tiên được thiên thần loan báo tin mừng giáng sinh là những mục tử : mặc dù họ nghèo, mặc dù họ không có cơ hội để thường xuyên đến Đền thờ tham dự các lễ nghi, mặc dù họ bị xã hội coi khinh, nhưng họ chính là "những người thiện tâm" (câu 14 phía trước) cho nên đáng được Thiên Chúa thương ban bình an (câu hát thiên thần : "Bình an dưới thế cho người thiện tâm").
- "Thiện tâm" của họ thể hiện trong cách họ đáp lại với Tin Mừng : sau khi nghe thiên thần loan báo, họ hối hả đi tìm, và sau khi gặp được Đức Giêsu, họ trở về loan truyền những việc kỳ diệu mà họ đã thấy.
- Phần Đức Maria thì ghi nhớ tất cả mọi sự và suy niệm trong lòng để ngày càng hiểu thêm về Đức Giêsu và về cách hành động kỳ diệu của Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (Tt 3,4-7)
Thánh Phaolô tìm hiểu ý nghĩa ơn cứu độ :
- Đó không phải do công lao hay sự công chính của loài người.
- mà là một ơn cho không.
- xuất phát từ lòng từ tâm và nhân ái của Thiên Chúa.
- Ơn này khởi sự từ việc con người lãnh nhận phép rửa
- và dẫn đến sự sống đời đời.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Một Thiên Chúa nghèo
Ngày nay, trong mức độ hoặc nhiều hoặc ít, việc mừng lễ Giáng sinh có phần sang trọng và tốn kém : trang hoàng, tiệc tùng, quà cáp v.v.
Nhưng ngày xưa ở Bêlem thì sao ? Thánh gia rất nghèo, nơi Đức Giêsu sinh ra rất nghèo… Những người nhận được "một Tin Mừng đặc biệt" cũng là những mục tử nghèo chứ không phải là những người Rôma quyền thế hay những cư dân Giêrusalem sang trọng.
Thiên Chúa yêu thương mọi người, Ngài ban Con mình cho mọi người, giàu cũng như nghèo. Nhưng Ngài ưu ái những người nghèo hơn ; và mặt khác những người nghèo dễ nhận ra Ngài hơn.
Muốn sống đúng ý nghĩa lễ Giáng sinh, chúng ta phải có tâm hồn nghèo, phải mở cửa lòng với những người nghèo và nhận ra hình ảnh Thiên Chúa nơi những người nghèo.
* 2. Một Thiên Chúa nhỏ bé
Chúng ta đã quen với hình ảnh một Thiên Chúa to lớn, uy quyền…
Nhưng khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta thấy cụ thể bằng hình hài xương thịt, thì lại là một đứa trẻ nhỏ bé, yếu đuối : không biết nói, không biết làm, không biết tự lo cho mình… Đứa trẻ cần mọi sự nơi người khác : nuôi nấng, chăm sóc, bảo vệ…
Vậy mà trong gia đình, đứa trẻ lại là người được chú ý nhất, có thể nói là uy thế nhất : mọi người từ cha mẹ đến anh chị đều phục vụ cho nó, chịu cực chịu khổ vì nó, tốn kém cho nó, sẵn sàng thay đổi giờ giấc và công việc vì nó… Thật là mầu nhiệm của sự nhỏ bé !
* 3. Ngôi Lời đã trở thành nhục thể
Ngày xưa có một cậu bé được tặng cho một chú lính chì trong dịp lễ Giáng sinh. Cậu rất sung sướng. Nhưng chẳng bao lâu sau cậu nghĩ : giá như có cách gì làm cho chú lính bằng chì này có được sự sống như mình thì hay biết mấy ! Và cũng chẳng bao lâu sau cậu bé lại lưỡng lự : làm cho chú lính này có sự sống tức là biến chú từ chì thành ra xác thịt ; mà như thế không biết chú có chịu hay không, bởi vì khi mang xác thịt thì có thể bị đau, bị thương và nhất là bị chết. Thế là cậu bé không nghĩ tới việc làm cho chú lính chì thành người nữa.
Câu chuyện nhỏ trên giúp ta hiểu mầu nhiệm Chúa nhập thể. Nhập thể là trở nên xác thịt như loài người. Đức Giêsu là Thiên Chúa nhưng đã trở thành một đứa trẻ sơ sinh, và trước khi là một đứa trẻ sơ sinh Ngài còn là một bào thai trong lòng một phụ nữ. Khi nhập thể, Ngài muốn được giống như người phàm, gần gũi với người phàm, chịu đói, chịu khát, chịu đau, chịu chết như người phàm.
Truyền thuyết Ấn giáo xem những vị thần Krishna và Rama là Thượng đế nhập thể. Tuy nhiên những vị thần này không bao giờ chịu khổ và chịu chết. Họ không phải là Thượng đế thực sự thành người, mà chỉ là những hình thái mà Thượng đế tạm mượn để hiện ra cho loài người thấy mà thôi. Còn Đức Giêsu thì khác : Ngài thực sự thành người và cùng chia xẻ mọi yếu đuối khổ đau của loài người.
* 4. Chúa ở cùng chúng ta
Một nhóm người đang trao đổi với nhau những suy nghĩ về ý nghĩa lễ Giáng sinh. Trong nhóm có một phụ nữ ít ai để ý tới, nhưng khi bà chia xẻ thì ai nấy đều chăm chú lắng nghe, vì bà kể về chính cuộc đời của bà.
Bà kể rằng gần đến lễ Giáng sinh thì bà rất sợ hãi, bởi vì bà rất cô đơn. Cha mẹ bà đã mất hết. Bà là đứa con độc nhất, không anh chị em. Bà cũng chẳng còn một người bà con nào cả vì bà là người cuối cùng trong dòng họ. Bạn bè thì bà cũng có, họ có gởi quà hoặc thiệp giáng sinh, nhưng chẳng ai mời bà đến nhà đề cùng gia đình họ mừng lễ Giáng sinh.
Thế thì ngày lễ Giáng sinh bà làm gì ? Sáng sớm Bà đến nhà thờ dự Thánh lễ. Sau lễ, bà đến một hội thiện nguyện giúp họ làm một số việc. Rồi trở về nhà, nấu cơm. Ăn xong, mở TV. Nhưng TV đâu có thay thế được những người thân ở bên cạnh mình, bởi đó bà vừa xem TV vừa khóc. Đến chiều, bà thả bộ dạo phố. Nhưng phố phường ngày lễ Giáng sinh rất vắng lặng, ai nấy đều rút vào mái ấm gia đình. Các cửa tiệm đóng kín cửa. Bà lần bước đến nhà thờ. Nhưng cửa nhà thờ cũng đóng kín. Bà đành trở về nhà, một mình gặm nhắm nỗi cô đơn, ý thức rất rõ mình chẳng có một chỗ nào giữa thành phố đông đảo và mênh mông này.
Nhưng chính lúc đó, bà chợt nghĩ đến câu Tin Mừng : "Hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ". Bà thông cảm với hoàn cảnh hài nhi Giêsu và thấy mình với Ngài rất giống nhau. Ý tưởng ấy làm cho lòng bà ấm lại. Theo bà, ý nghĩa lễ Giáng sinh chính là Thiên Chúa đến chia xẻ thân phận con người.
* 5. Ghi nhớ và suy nghĩ
"Còn Bà Maria thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng"
Trong những dịp Lễ Giáng sinh, chúng ta đã thấy và đã nghe rất nhiều điều. Nhưng các năm trước, tất cả những điều ấy chỉ rộn lên trong một ngày rồi mau chóng chìm vào quên lãng. Lễ Giáng sinh năm nay, chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ "ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng"
- Hãy ghi nhớ và suy nghĩ về sự nghèo nàn. Tại sao Chúa có quyền chọn, thế mà Ngài lại chọn sinh ra trong cảnh nghèo nàn ?
- Hãy ghi nhớ và suy nghĩ về những mục tử. Họ là hạng người bị xã hội thời đó coi là hèn hạ, thậm chí bất hảo. Tại sao Chúa lại ưu ái họ đến nỗi mời họ đến gặp Ngài trước tiên ?
- Hãy ghi nhớ và suy nghĩ về nhiệt tình của tín hữu trong dịp Lễ Giáng sinh. Tại sao hôm nay họ đi lễ đông đủ như thế, còn những Chúa nhựt khác thì thưa thớt ?
- Hãy ghi nhớ và suy nghĩ về sự tham gia của những người không phải kitô hữu. Cả họ cũng mừng Lễ Giáng sinh, nhiều người còn đi lễ. Vì động cơ nào ? Họ nghĩ gì về Đức Giêsu và về Kitô giáo ?
* 7. Chuyện minh họa
Vào buổi sáng nọ, người thợ giầy thức giấc rất sớm. Anh quyết định chuẩn bị căn xưởng nhỏ của anh cho tươm tất rồi vào phòng khách chờ đợi cho bằng được người khách quý. Người khách đó không ai khác hơn là chính Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ Ngài đã hiện ra và báo cho anh biết Ngài sẽ đến thăm anh trong ngày hôm sau.
Người thợ giầy ngồi chờ đợi, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Khi những tia nắng sớm vừa rọi qua khung cửa, anh đã nghe được tiếng gõ cửa. Lòng anh hồi hộp sung sướng. Hẳn là Chúa đến. Anh ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đang đứng trước mặt anh không phải là Chúa, mà là người phát thư. Sáng hôm đó là một ngày cuối đông. Cái lạnh đã khiến mặt mũi tay chân người phát thư đỏ như gấc. Người thợ giầy không nỡ để nhân viên bưu điện run lẩy bẩy ngoài cửa. Anh mời ông ta vào nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đứng dậy cám ơn và tiếp tục công việc.
Người thợ giầy lại vào phòng khách chờ Chúa. Nhìn qua cửa sổ, anh thấy một em bé đang khóc sướt mướt trước cửa nhà. Anh gọi nó lại hỏi cớ sự. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và không biết đường về nhà. Người thợ giầy lấy bút viết vài chữ để lại trên bàn, báo cho người khách quý biết mình đã đi ra ngoài. Nhưng tìm đường dẫn đứa bé về nhà đâu phải là chuyện đơn giản và nhanh chóng. Mãi chiều tối anh mới tìm ra nhà đứa bé và khi anh về lại nhà thì phố xá đã lên đèn.
Vừa bước vào nhà, anh đã thấy có người đang đợi anh. Nhưng đó không phải Chúa mà là một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy. Bà cho biết đứa con của bà đang ốm nặng và bà đã không thể chợp mắt suốt đêm qua. Nghe thế, người thợ giầy lại hối hả đến săn sóc đứa bé. Nửa đêm anh mới về nhà, anh để nguyên quần áo và lên giường ngủ.
Thế là một ngày đã qua mà Chúa chưa đến thăm anh. Nhưng đột nhiên trong giấc ngủ, người thợ giầy nghe tiếng Chúa nói với anh : "Cám ơn con đã dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà. Cám ơn con đã săn sóc an ủi Ta. Cám ơn con đã tiếp đón Ta ngày hôm nay" (Trích "Món quà giáng sinh")
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, trong niềm vui lớn lao của Lễ Giáng sinh, kỷ niệm tình thương giáng thế. Chúng ta hãy vui mừng dâng lên Chúa những lời nguyện tha thiết sau đây :
1. Xin cho Hội thánh và mọi Kitô hữu biết dùng lễ Noel này / để loan báo tin vui hòa bình và cứu độ cho mọi người trên thế giới.
2. Xin cho những người có trách nhiệm quốc gia hay quốc tế / biết dùng dịp lễ Noel này để tìm kiếm và duy trì những giải đáp đem lại công lý và hòa bình cho mọi dân tộc.
3. Xin cho những đôi vợ chồng đang chia rẽ, những gia đình bị phân ly, những người đang đau khổ vì chiến tranh huynh đệ tương tàn / được ánh sáng đêm Noel soi / để tìm về hòa giải và sống hiệp thông với nhau.
4. Xin cho anh chị em trong cộng đồng xứ đạo chúng ta đang mừng lễ Noel hôm nay / biết sống một lễ Noel trọn tình nghĩa với Chúa / và chia sẻ niềm vui cho mọi người chung quanh.
CT : Lạy Chúa, chúng con cảm tạ ơn Chúa vì đang được hưởng đem thánh huyền diệu này, xin cho ánh sáng đêm Noel chiếu soi vào mọi người chưa biết Chúa, và dẫn lối đưa đường cho họ tìm về hiệp thông với Hội thánh Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô...
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha : Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban Con Một của Ngài sinh xuống làm người ở với chúng ta. Chúng ta hãy lấy hết tình con thảo dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha.
VII. GIẢI TÁN
Thiên Chúa đã làm người để loài người được làm Chúa. Anh chị em hãy sống xứng đáng với hồng ân cao cả này. Chúc anh chị em bình an.