Cha Chính Nguyễn Văn Vinh, Giáo Phận Hà Nội
Bối Cảnh U Ám Thời Chinh Chiến Đầu Thập Niên 1950 tại vùng Đồng Văn, Phủ Lý, Hà Nam Bắc Phần Việt Nam
1.
Đã từ lâu người cựu chủng sinh họ Đỗ tiểu chủng viện Piô XII Hà Nội đã cố tập trung tài liệu để viết về Linh mục Nguyễn Văn Vinh, người cha linh hướng thánh thiện, một vị anh hùng tử đạo kính yêu, đầy kiêu hùng của bản thân cậu, của nhiều người, và của Giáo Hội Việt Nam,.
Đoạn đường cậu di chuyển từ Tiểu chủng viện Thánh Phêrô Hoàng Nguyên, trong vùng Cộng Sản chiếm đóng sang vùng tề (quốc gia không Cộng Sản) sau những ngày hè có nhiều xáo trộn đặc biệt. Hoàng Nguyên thuộc Quận Phú Xuyên, Tỉnh Hà Đông. Tình hình này diễn biến từ tháng Năm đến Tháng Tám năm 1952.
Khu chủng viện và nhiều làng xóm chung quanh đó thuộc Quận Phú Xuyên và Huyện Duy Tiên, Hà Nam đã nằm trong vùng kiểm soát của quân du kích Cộng sản, sau một thời gian ở trong vùng tề của quân đội Liên Hiệp Pháp. Trong lúc rời chủng viện Hoàng Nguyên về làng Hòa Khê, nơi sinh nhau cắt rốn của mình, dưới bộ đồ trắng cậu phải đi vội như chạy, trên đường đá bên kia con sông đào Hòa Khê. Mắt cậu như như dán chặt, trông chừng chiếc máy bay do thám bà già liên tục cứ xà thấp xuống quan sát toàn khu vực.
2. Về đến nhà, cậu chủng sinh thấy Mẹ và hai chú em trai đang vùi đầu chuẩn bị các thứ đồ đạc, thức ăn cho cậu rời làng Hòa Khê. Đạn móc chiê ùng oàng bắn loạn vào vườn, chẻ nát bụi tre làng, bên cạnh nhà. Mẹ vội giục giã con đi sớm ngay vào Đồng Văn để tránh nguy hiểm, không kịp ngó lại những kỷ niệm thời thơ ấu trong thửa vườn đầy luyến thương. Ngay chiều sâm sẩm tối hôm ấy, mẹ con cậu âm thầm mang vào Đồng Văn cho Cha cậu đã chạy vào đó từ trước. Họ khẩn trương chuẩn bị cho cuộc di chuyển của toàn thể gia đình cậu tản cư lên Hà Nội.
Tuy chậm chân thoát ly làng lên thành thị cải thiện cuộc sống gia đình, nhưng đó là cơ hội bắt buộc vì hoàn cảnh chiến tranh, gia đình cậu phải đi, dù tương lai ra sao. Cậu cùng mẹ đầy âu lo vội tìm, đi theo các lối khuất giữa các ruộng ngô khoai hay các bờ ruộng nhô cao khô ráo. Mẹ con cũng đã tới được nơi căn nhà cha cậu tản cư và tạm ngụ cùng với anh Truyền, Phổ đã đi từ trước, và anh Nguyễn. Anh này là con trai con ông Cửu Hoàn, anh ruột cha cậu mà cậu thường gọi là Bác Hoàn.
Đó là một gian nhà lợp vội bằng tre rơm rạ, trống trải mà người ta cất lên và cho thuê ở trạm Đồng Văn, bên vệ đường quốc lộ số 1, đã bị quân du kích Cộng Sản đào nát ở nhiều chỗ theo chữ chi, để “tiêu thổ kháng chiến chống Pháp”. Ban ngày ngoài đường ai nấy đều nhốn nháo, kẻ đi lên người đi xuống, chạy trốn cảnh chiền tranh. Cậu, như con thiêu thân, say mùi thuốc pháo và hơi xăng xe ô tô Ngựa Bay và nhiều hãng khác, chạy trên quốc lộ. Ban đêm, súng móc chiê từ Bót Cống Nhật Tựu gần Sổ Nghệ hay phía sau làng Động Linh, bắn ùng oàng vào các làng bị chiếm đóng nằm hai bên đường quốc lộ số một.
Các toán lính đi tuần ban đêm trên đường trước mái nhà tranh sơ sài mà người ta ngủ bên trong. Qua những khe hở qua phên liếp tre đan, dưới ánh đèn điện vàng khè leo lét, hầu như cả nhà từ bên trong, ai cũng đều ngó xem những toán lính từ đâu trên xe tải nhà binh đổ xuống. Họ đi tuần ngay bên ngoài mặt đường. Người ta nơm nớp lo sợ khi có nhiều tiếng súng lớn nhỏ nổ ran, chung quanh đồn gần đó, khua tan đêm ngủ không tròn giấc.
Từ trạm ga Đồng Văn, một hôm anh Truyền và cậu đi xe đạp trên đường số một đã bị đào chằng chịt, hạn chế việc di chuyển của quân đội Liên Hiệp Pháp và những chuyến ô tô của dân buôn. Hai anh em xuống thăm chị Hợi ở làng Kẻ Sở (Hồng Phú), rồi vòng lên huyện lỵ Phủ Lý vào thăm gia đình anh chị Xã Hòa. Gia đình này đã rủ gia đình ông bà Hàn Tịch cùng tản cư xuống đây. Bà Hàn Tịch là chị ruột của Lý Phẩm, và hai cô chú ấy đều là em họ hai cậu Ở Nam Định, anh Doanh đã phải bỏ nghề dân quân tự vệ tại các bốt (postes) trong các làng vừa bị quân kháng chiến chiếm đóng, để tham gia quân đội Liên Hiệp Pháp, khi vùng tề bị đánh phá chiếm đóng. Anh đang lái xe Jeep cho một viên sĩ quan Pháp, nhưng chuẩn bị đào ngũ để mang gia đình và con cháu tản cư lên Hà Nội. Anh kiếm thuê một miếng đất ở phố Đội Cấn, Khu Ngọc Hà, Hà Nội để nuôi sống gia đình trong những ngày chạy loạn lên Hà Nội.
Đi Hà Nội Lần Đầu Tiên
Cậu đi Hà Nội trước để kịp gia nhập chủng viện. Cha cậu, anh Truyền, anh Phổ và anh Nguyễn trù liệu thu xếp chuyển lên Hà Nội sau. Cha cậu sẽ đến cư ngụ tại số 78 Phố Đội Cấn Khu Ngọc Hà, Hà Nội, chung nhau mở hiệu thuốc Bắc, người góp công kẻ góp của, với cha con ông bà Dần. Ông bà này người thuộc giáo xứ Chằm hạ, mới trúng sổ xố nên có đủ tiền mua nhà ở Hà Nội.
Còn gia đình anh Ngoạn, Nguyễn tạm trú tại nhà anh Ba Khoa, thuê tại gần khu Thái Hà Ấp, cùng với anh Truyền, Phổ, hai anh ruột lớn của cậu. Khi cha cậu lên cư ngụ ở Phố Đội Cấn, ông mở cửa hiệu thuốc làm Đại Lý Nhà Thuốc Đông Hoa để kiếm tiền sống qua ngày.
Khi cha cậu ổn định tại đây, thì mẹ cậu, chị Hợi, anh Truyền, Phổ cũng đến thăm cha cậu tại Hà Nội. Chị ở chơi Hà Nội mấy ngày thăm cha mẹ, các em, rồi trở lại Hồng Phú. Anh Phổ ở lại Hà Nội, học nghề may với anh Ba Khoa, còn mẹ lại đi đi về về nhiều lần sau mới lừa quân du kích trong làng bỏ nhà hẳn đi lên Hà Nội với hai em Trang và Dzong
Gia Nhập Tiểu Chủng Viện Piô XII Hà Nội Sau Hè 1952
Trong bối cảnh ly tán của những người thân trong gia đình, cậu chủng sinh đã chuyển trước lên cư ngụ Quần Ngựa, gia nhập tiểu chủng viện Piô XII, lúc đó đặt cơ sở tại Trường Lacordaire mà chủng viện tiếp quản từ các linh mục thừa sai Paris. Trước đó các thừa sai này (cụ thể là Linh Mục Paul Seitz Kim coi Cô Nhi Viện Thị Xã Kitô Vương, về sau chuyển đến Gò Đống Đa, lối đi xuống thị xã Hà Đông) tiếp nhận từ các linh mục dòng Đaminh chi tỉnh Lyon tại Việt Nam. Cô Nhi Viện vừa tản cư từ cơ sở tại Sơn Tây về Hà Nội.
Thụ Huấn với Linh mục Nguyễn Văn Vinh, cha giáo Pháp Văn và Âm Nhạc
Từ đó, cậu theo học, được xếp vào lớp Đệ Thất, lớp nhỏ nhất trong chủng việc khi đó và từ đó biết chút ít về Linh mục Nguyễn Văn Vinh. Lúc ấy Linh mục mới ở Pháp trở về sau mấy năm du học tại Pháp. Ngoài LM Vinh, con có một số linh mục mới từ bên Pháp về nước: LM Lê Văn Lý, Đình Lưu Nhân, Nguyễn Văn Khiết. Về sau, khi chủng viện vào Nam, thì có thêm các Linh mục Nguyễn Ngọc Oánh, Nguyễn Minh Thông, và Nguyễn Hân Quynh.
Như cậu nghe biết, ngài sinh tại làng Ngọc Lũ, Nam Định, chưa có tư liệu để biết ngày sinh tháng năm sinh của ngài, nhưng chắc là sấp xỉ cùng tuổi với linh mục Lê Văn Lý (1913-1992). Ngọc Lũ là một làng quê gần núi Đọi Đệp, hay Đọi Sơn, gốc gác nổi tiếng của Trống Đồng Ngọc Lũ. Đó cũng là nơi xuất phát nhiều dòng tín hữu tử vì đạo trong thời kỳ cấm đạo (1771-1885). Trong thời gian du học tại Pháp Linh mục Nguyễn Văn Vinh đã gia nhập dòng Biển Đức. Nhưng khi về Hà Nội, cậu chỉ biết Linh mục là một giáo sỹ thuộc địa phận Hà Nội. Linh mục say mê và rất giỏi Violon. Tôi nghe nói là Linh mục đỗ đầu trong các thí sinh trúng tuyển kỳ thi vĩ cầm (violonistes lauréats) ở Conservatoire National Supérieur de Musique de Paris.
Thừa Sai Dépaulis Hương (1876-1950), Đỡ Đầu Linh Mục Nguyễn Văn Vinh
Joseph, Antoine Dépaulis sinh ngày 27/4/1876, tại giáo xứ Thánh Jean Baptiste, ở Rive-de-Gier, hạt La Loire, giáo phận Lyon. Cậu theo trung học tại TCV Montbrison, rồi lên học triết ở chủng viện Lyon, và ở đó ngày 28/5/1896 thầy chịu phép cắt tóc.
Ngày 4/10/1898 Thầy vào chủng viện thừa sai, chịu các chức nhỏ từ 1899-1901 và thụ phong linh mục ngày 23/6/1901. Ngày 24/7/1901, tân linh mục được lệnh sang truyền giáo ở Địa phận Đại Diện Tông Tòa Tây Bắc Kỳ (Hà Nội), Việt Nam.
Sau thời gian học tiếng Việt, Cha Dépaulis được bài sai đi coi xứ Kẻ Bèo (Đồng Bào, nơi công đoàn mà Thánh Théophane Vénard (Thánh Ven) và xứ Kim Bảng, làm phó xứ cho Cha Chalve, đã phụ trách trông coi hai xứ khác.
Năm 1904, GM Hà Nội Gendreau Đông bổ nhiệm ngài làm chính xứ Ngọc Lũ. Chính thời gian ngài quản nhiệm Ngọc Lũ, v à mấy xứ khác lân cận, ngài nhận đỡ đầu cho cậu Nguyễn Văn Vình.
Năm 1920, Linh Mục Dépaulis nhận trách nhiệm làm quản lý Hội Thừa Sài ở Hà Nội. Ngài hết sức tích cực để hoàn thành nhiệm vụ mới. Ngài chuẩn bị các tài nguyên cho tương lai. Ngài điều khiển xây cất trường thử, nhà quản lý và nhà ở mới, hai trường học mới, một cho con trai, một cho con gái trong giáo xứ nhà thờ lớn, một cư xá sinh viên.
Ngài nổi tiếng là một người hăng say hoạt động, có tài quán xuyến công việc xây dựng và tố chức, trong đó có tài âm nhạc. Có thể vì thế thiên tài âm nhạc của ngài đã tác động nhiều đến người con đỡ đầu Nguyễn Văn Vinh.
Năm 1930, hai giám mục Gendreau Đông và Marcou Hành về Pháp, tham dự Đại Hội Hội Thừa Sai Paris. Nhân đó các ngài đem theo 12 chủng sinh Bắc Kỳ cùng đi với các ngài. Linh mục Dépaulis tháp tùng phái đoàn. Linh mục lưu lại Pháp để bồi dưỡng sức khỏe từ tháng 6/1930 đến tháng 3/1931, đồng thời tham gia học hỏi thêm những phương pháp làm tông đồ mới. Trong hai tháng, ngài đã nhiều lần thuyết trình tại các học viện và chủng viện ở Bỉ và Pháp.
Đây là chính thời gian các vị thừa sai miền Bắc chuẩn bị hàng ngũ chủng sinh thành những linh mục đủ tài đức về làm việc cho giáo hội Việt Nam, cụ thể là giáo phận Hà Nội. Về sau trong kế hoạch đó, địa phận Hà Nội có các linh mục Lê Văn Lý, Đinh Lưu Nhân, Nguyễn Văn Khiết, Nguyễn Huy Mai, Nguyễn Hân Quynh, Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Minh Thông, Nguyễn Xuân Oánh (Hà Nội), Nguyễn Văn Bồng (Thanh Hóa).
Trở lại Hà Nội, ngài phụ tá cho Linh mục Dronet, chính xứ nhà thờ lớn. Từ năm 1931 đến tháng 12/1935, ngài coi sóc việc xây dựng và trang trí nhà thờ Đức Bà Các Thánh Tử Đạo, xây một phòng làm việc, một nhà xứ tiện nghi. Về sau ngài đến cư trú đó năm 1934. Ngài hăng hái tồ chức đoàn nghĩa binh thánh thể, xuất bản một bản tin tiếng Việt, và củng cố đoàn hướng đạo đầu tiên của Hà Nội.
Năm 1936, Linh m ục Dépaulis được bổ nhiệm quản trị một giáo xứ mới được xây dựng quanh ngôi nhà nguyện Thánh Antôn khiêm tốn. Chính ngài đã tậu một thửa đất khá rộng để xây dựng một trung tâm giáo xứ với một nhà thờ, một nhà ở, một phòng làm việc và trường học.
Ngài hăng say xây dựng các công trình để qui tụ các tin hữu trong khu vực và giúp đỡ các người nghèo: Quân Binh Thánh Thể, Hội Vinh Sơn, Công Giáo Tiến Hành, các tập thể thanh niên Việt Nam, các trại hè, v.v…Chủ Nhật ngày 7/5/1939, nhà thờ mới Thánh Antôn được khánh thành.
Tháng 3/1940, ngài được bổ nhiệm làm đại diện của các phái đoàn truyền giáo Bắc Kỷ ở Quỹ Brévié. Tổ chức này có mục đích trợ giúp các trẻ em lai, chủ yếu là Pháp Việt, bị bỏ rơi.
Tháng 3/1945. Cha Dépaulis bị chấn động mạnh do biến cố quân sự Nhật đảo chính Pháp. Trong các tháng tiếp theo, khi Việt Minh nổi dậy, ngài phải chịu nhiều cảnh khốn đốn đau khổ do tinh thần ngoan cố của giới thanh niên và do các biến cố xảy ra..
Một thanh niên đã dám dùng tay đánh ngài. Được cha Khuê, người Việt Nam lúc đó làm phụ tá cho ngài, giúp đỡ tận tình, ngài cố gắng chịu đựng và thích ứng. Ngày 19/1/1946, ngài phải lánh nạn, tạm trú ở các văn phòng trong hãng Shell gần đó ít ngày. Sau đó mới có thể gặp lại Phái Đoàn truyền giáo. Từ lúc đó, ngài mất hết khả năng tự chủ và phải từ nhiệm rồi buộc phải hồi hương về Pháp. Có thừa sai Chabert thuộc phái đoàn truyền giáo Hưng Hóa đi theo ngài đến Marseille ngày 4/6/1948. Từ đó ngài được chuyển đến Montbeton.
Một trong những niềm vui cuối cùng của ngài là Giám Mục Trịnh Như Khuê đến thăm Ngài. Linh mục Khuê, phó xứ cho ngài trước kia, bây giờ được bổ nhiệm Giám Mục Hà Nội. Linh mục Hương Dépaulis chết tại Montbéon, sau nhiều đau đớn kéo dài ngày 3/12/1950
Vài Kỷ Niệm Thâm Tình Với Linh Mục Nguyễn Văn Vinh
Giảng dậy, linh hướng
Hai kỷ niệm nhớ nhất mà tôi có cho đến nay khi được thu huấn Pháp Văn với linh mục ở TCV Piô XII Quần Ngựa, đường Hoàng Hoa Thám, Quận Hoàn Long, Hà Nội. Ngài thường kể truyện khi ngài ngồi trên Métro đi đến mỗi buổi sáng sớm dâng thành lễ ở một nhà thờ nào đó tại Paris, nhiều hành khách cứ tưởng ngài là một phụ nữ nên đã liên tục chào Bonjour Madame, dù họ có thể gặp ngài nhiều lần. Linh mục Nguyễn Văn Vinh có dáng dấp bề ngoài một người dễ thương, yểu điệu, hay faire la petite bouche. Nhưng ẩn dấu trong con người đó ngài lại bộc lộ một tính tình cương nghị sắt đá!
Kỷ niệm khác, cậu chọn ngài làm cha linh hướng. Khi còn nhỏ, cứ mỗi lần lên phòng ngài bàn việc linh hồn, thì ngài hay đùa nghịch. Có ai đó cho biết ngài giỏi vĩ cầm, nhưng câu chưa được chính ngài kéo vĩ cầm cho nghe riêng trong phòng ngài. Cậu thích nhõng nhẽo, thường chui rúc vào dưới áo soutane như con chó cún nhỏ bé dễ thương. Thế rồi khi hết giờ, trước khi ra về, ngài thường cho một hộp sữa đặc có đường mà người ta gửi biếu ngài từ bên Pháp. Mỗi lần có sữa như thế, cậu thường mang về và tối mở ra mút sữa một mình khoái trá bên trong màn.
Cha giáo âm nhạc
Ngài qui tụ một số anh em giỏi nhạc như Nguyễn Văn Hòa (GM Hòa Nha Trang), Nguyễn Văn Đồng (Đồng Bi ton, linh muc tại Cần Thơ), Nguyễn Văn Lệ (Titus Lệ, Nhạc Sĩ Nguyễn Hải Ánh), Vũ Kim Hường (Hường Khé Khò), Vũ Hùng Tôn (Tôn, cháu cha Lai, gốc Thanh Hóa) để huấn luyện và giúp ngài tập hát chung cho chủng sinh.
Tôi nhớ nhất là những bài “De Profundis”, “Lạy Cha”, “Jam Albae sunt ad Messem”, “Bravo, Bravo!!!”… mà ngài tập cho ca đoàn chủng viện Piô XII hát trong thánh lễ hay các dịp lễ tân. Về sau, khi sang Hoa Kỳ, từ cuối năm 2003, tôi còn thấy những bài đó được thế hệ Vũ Hùng Tôn phổ biến cho nhiều ca đoàn ở hải ngoại, như ở Seattle bang Washington, như ở Ca Đoàn Giáo Xứ La Vang, Cincinnati, bang Kentucky.
Khi Địa phận Hà Nội cho các chủng sinh di cư vào Nam, từ khoảng 14/7/1954, trong số các linh mục được chỉ định vào đi theo chủng viện, theo hiểu biết của người viết, có các Linh mục Đinh Lưu Nhân và Nguyễn Văn Vinh, nhưng cả hai vị đều xin ở lại.
Ở địa phận Hà Nội theo nhận xét của một cựu chủng sinh Hà Nội (Nguyễn Văn Lục), Tổng Giám mục Trịnh Như Khuê có cái may mắn là qui tụ được một số Linh mục trí thức như các linh mục trên. Họ đều là trí thức du học, có thể là bậc thầy của đám bốn tên sau này ở Sàigòn, mà nhiều người gọi tên là “tứ nhân bang”. Nhưng họ có lý tưởng vững chắc, đạo hạnh, can đảm, hy sinh, tuân phục mặc dầu bị bách hại. Trong số bốn vị trên, Lm Vinh chết trong tù ở trại Cổng Trời, Lm Thông 27 năm tù, hai lần lên Cổng Trời, được thả ra và chết sau đó vài năm. Lm Quynh, Oánh, đều bị quản thúc trên 20 năm.
Trường Hợp Cha Chính Vinh bị bắt giam
Trường hợp LM Nguyễn Văn Vinh bị bắt diễn ra như sau: Khoảng năm 1959, tất cả các trường theo sắc lệnh 234, các tôn giáo đều có quyền mở trường tư thục do tư nhân điều khiển.
[Sắc lệnh 234 đầu tiên về Tôn giáo do Hồ Chí Minh ký ngày 14-6-1955. Ngày 11-6-1964, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Thông tư số 60-TTg yêu cầu thi hành chính sách tôn giáo theo Sắc lệnh 234
- Điều 3: “Các nhà tu hành ngoại quốc mà Chính phủ ViệtNam Dân chủ Cộng hoà cho phép, thì được giảng đạo như các nhà tu hành Việt Nam.....”,
- Ðiều 5. “Các tôn giáo được mở trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo của mình.”
- Điều 9: “Các tôn giáo được phép mở trường tư thục. Các trường tư thục phải dạy theo chương trình giáo dục của Chính phủ. Ngoài giờ dạy theo chương trình giáo dục của Chính phủ có thể dạy thêm giáo lý cho những học sinh nào muốn học”.
- Điều 13: “Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo”,]
Nhưng nhà nước Cộng Sản chỉ thị cho tất cả các trường học, dù công hay tư, đều phải treo ảnh Hồ Chí Minh trong lớp. Trước giờ học cả lớp đều phải chảo cờ đỏ sao vàng, hát bài tiến quân ca bấy giờ được chọn làm quốc ca.
Chỉ thị của nhà nước được lệnh phải đọc công khai trong nhà trường và nhà thờ. Trung thành với tinh thần sắc lệnh tôn giáo về qui chế tư thục, Linh mục Nguyễn Văn Vinh, với tư cách là cha chính (tồng đại diện) địa phận Hà Nội, chính xứ nhà thờ lớn Hà Nội, đã không cho công bố sắc lệnh này ở nhà thờ, không tháo gỡ thánh giá và treo ảnh lãnh tụ, không chào cờ đỏ sao vàng, thay thế.
Cụ thể là ngài không áp dụng chỉ thị trên cho trường giáo xứ Nhà thờ lớn Hà nội là trường Dũng Lạc.
Lúc đó ngài còn đang được mời dậy La tinh cho các sinh viên ở Trường Đại Học Y Khoa Hà Nội. Khi Chu Ân Lai, Thủ Tướng Trung Hoa đến thăm Hà Nội, ông thấy Linh mục Nguyễn Văn Vinh còn tiếp tục được mời giảng dậy tại Đại Học. Ông liền nói với phái đoàn tháp tùng ông:
“Giờ này mà còn có linh mục được mời giảng dậy Đại Học à!”
Thế là một buổi sáng nọ linh mục Nguyễn Văn Vinh bị bắt dẫn đi, đem tống giam vào nhà Hỏa Lò Hà Nội, một nhà tù khét tiếng độc ác tại Hà Nội, vỉ bất tuân thượng lệnh! Dần dà linh mục bị dẫn giải đem giam ở nhiều trại giam, có thể ở Cầu Giát Quỳnh Lưu Nghệ An, Thanh Cầm Thanh Hóa, Đàn xanh, Ba Sao Nam Hà, Hồng Ca Yên Bái, Trại Ngọc Yên Hòa Phú Thọ, An Thịnh Tuyên Quang, Vinh Quang Vĩnh Phú, Phong Quang Lao Kay, trước khi đến Trại Tù Cổng Trời. Nhiều nhiều nhân vật khí khái đã từng bị kiên giam và biệt giam cho đến chết, mà không tự phản bội chính mình và lý tưởng của mình. Nào là thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, nhà văn Vũ Thư Hiên, Nhà văn Nguyễn Hữu Đang. Rất nhiều linh mục đã bị kiên giam và biệt giam nhiều năm trong chin tầng địa ngục Cổng Trời này.
Theo chứng từ của một người tù (Kiều Duy Vĩnh) tại Cổng Trời, thì thành phần tù nhân phần lớn là vì lý do bách hại Công giáo:
“Tôi xin nhắc lại: Tôi không theo đạo Thiên Chúa, và điều ấy có thể đã làm cho tôi sống được đến hôm nay, năm 1994. Vì những người Cộng Sản căm những người theo đạo Thiên Chúa nhất nên tất cả mũi nhọn của nền chuyên chính đều chĩa vào họ.
Thứ nhất là các đấng bậc trong Giáo Hội, rồi đến các tu sĩ cả nam lẫn nữ. (Tôi đã gặp hai bà sơ bị bắt vào xà lim). rồi đến các chánh trương, trùm trưởng, cả đến hội trống hội kèn cũng bị bắt đi tù hàng loạt.
Tôi trông họ hiền lành, ngơ ngơ nói năng chẳng rõ họ mắc tội gì mà bị hành hạ đến như vậy: Họ có mỗi một tội là tin vào Chúa Jê Su. Thế thôi.
Còn tôi, chả hiểu làm sao, tôi thiếu đức tin đó, và điều đó đã cứu tôi sống. Nói thế không có nghĩa là tất cả mọi người công giáo đi tù đều chết hết đâu. Còn chứ. còn anh Thi, anh Thọ, chị Diệp những người trong vụ nổi loạn ở Ba Làng Thanh Hóa năm 1954, còn Nguyễn Công "Cửa" tức Môn, ngư dân vượt biển, còn Nguyễn Hữu Bổn người thôn Vạn Lộc Nam Lộc Nam Đàn...
Tôi có nghe nói lại là khi đọc lệnh tha anh Thi, anh không chịu ra khỏi tù, họ phải lôi anh ra, anh mới chịu ra.
Ngay cả giáo dân họ cũng kiên cường như vậy, thảo nào mà những người Cộng Sản đặt họ lại hàng đầu để tàn sát họ, tiêu diệt họ.
Cho đến hôm nay năm 1994, tôi vẫn mong mỏi gặp lại vài người còn sót lại trong số 72 người đầu tiên lên Cổng Trời mà vẫn chưa gặp lại ai, ngoài 1 người Cộng Sản là anh Nguyễn Hữu Đang.”
Một Hình Ảnh Về Trại Cổng Trời, Nơi Linh Mục Nguyễn Văn Vinh Bỏ Xác Lìa Đời
Có nhiều người tù còn sống ghi chép lại trại tù này. Trong “Đêm Giữa Ban Ngày", Vũ Thư Hiên hồi ức về Trại Cổng Trời như sau.
Cổng Trời là một trại giam ở xa tít mù tắp mãi tận Hà Giang, bên kia Mù Cang Chải, giáp giới Trung Quốc. Cổng Trời đi vào huyền thoại, là nỗi kinh hoàng của người tù. Những ai đã từng sống ở Cổng Trời thậm chí không muốn kể về nó, không phải vì sợ bị công an trừng phạt (nghiêm cấm nói đến bí mật của các trại), mà còn vì sợ người nghe nghĩ mình bịa đặt.
Hình như Tôn Thất Tần đã ở cái trại kinh khủng đó, nhưng ông ngậm tăm. Những người tù nói rằng ai đã lên Cổng Trời mà còn về được coi như sống lần thứ hai....Chế độ giam giữ ở đây rất khe khắt. Hơi một tí là bị”khóa cánh tiên”, bị “hạ huyệ”, còn nếu bị “cùm hộp” thì coi như đời đi tong.
Vũ Thư Hiên đã mô tả ba lối hành hạ “Khóa cánh tiên, Hạ huyệt và Cùm hộp” trong cuốn hồi ký của ông, mà thú nhận chỉ mới được thấy cảnh người bị "khóa cánh tiên" (có người chỉ chịu được vài phút là ngất xỉu, có người chịu được hàng giờ như thi sĩ Nguyễn Chí Thiện,) còn hai lối giết người kinh khủng kia ông chưa được thấy chỉ nghe kể lại.
Một nhân chứng ở trại Cổng Trời cho biết là Linh mục Nguyễn Văn Vinh qua đời vào khoảng năm 1970. Tù nhân trong trại được lệnh đem xác cha đào hố chôn ở một khoảnh rừng gần đó. Về sau, người làng Ngọc Lũ đã tìm cách đào nấm mồ chôn xác ngài. Người ta thu lượm được một phần mùn di cốt và mảnh y phục mà ngài mang khi qua đời, rồi đem về, bảo quản, tôn sùng tại Nhà Thờ Ngọc Lũ, chung với số phận các tiền nhân tử đạo Việt Nam, như đã nói
Một Hình ảnh Khác Về Trại Tù Cổng Trời, Qua Ngói Bút Của Một Số Cựu Tù Nhân Sống Sót Ghi Chép Lai.
Tổ chức ở Nhà Tù Cổng Trời ở miền Bắc Việt Nam, nơi giam giữ cha Nguyễn Văn Vinh, nhiều cha khác và nhiều thành phần khẳng khái bị khép vào tội lật đổ hay âm mưu lật đồ chế độ. Hầu hết tù nhân là những chính trị phạm ngoan cường, những linh mục tu sĩ hay chỉ duy nhất một lần một người tù hình sự cho anh em biết là ở đó có hầm đá, quan tài đá và chôn một người chết ở đó được thỉ thêm một cân lòng trâu. Thế thôi. Không còn biết gì hơn nữa.
Nhưng Khu A, Khu B, Khu C thì có tù nhân biết rõ vì đã lần lượt bị giam ở ở cả ba khu này.
Khu A thì (tính đến 1967) chết gần hết chỉ còn tù nhân Kiều Duy Vịnh và Trần Huy Liệu người Cầu Giát, Quỳnh Lưu. Khu B thì chết ít hơn, Khu C thì phần lớn còn sống trở về.
Đấy là chỉ tính từ thập kỷ 70 trở về sau. Còn 72 người tù đầu tiên lên trại Cổng Trời năm 1960 thì vào khoảng năm 1997, tù nhân họ Kiều chỉ còn gặp lại một mình Nguyễ¬n Hữu Đang, người bị kết án là cầm đầu Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm mà thôi. Như thế là trong số 70 người tù kia chẳng còn ai cả.
Coi sóc cả ba khu là một Phó Giám Thị, tù nhân họ Kiều không còn nhớ tên, chỉ nhớ tên đó là xuất thân ở Đức Thọ, Hà Tĩnh cùng quê với cố Hoàng (có hai con trai sinh đôi là Song, Toàn).
Người ta thấy Phó Giám thị như một Quỷ Sứ Đen Đủi hiện hình, lác bạch như mắt này chửi mắt kia, mồm méo sệch. Vì thân tàn ma rại như thế mà bọn Công Sản mới dùng vào việc này bất nhân này. Lúc nào hắn cũng lừ đừ, lầm lủi như ma hiện hình, chợt đến, chợt đi, như muốn rình mò chộp giựt một cái gì đó. Hắn nhìn ai cũng thể như trợn trừng như muốn ăn sống nuốt tươi người ta. Cố Hoàng bảo: "Tôi biết hắn lắm mà. Hắn giết nhiều người lắm đó." Tuy đồng hương, nhưng hắn không hé răng với cố Hoàng bao giờ cả.
Một Mẩu Sinh Hoạt Trong Nhà Lao: “Nhất Nhật Tại Tù, Thiên Thu Tại Ngoại”
Quỷ mắt lác chợt đến, đâm xông vào buồng, sộc vào tận ngóc ngách nhìn soi mói, sờ nắn nếu có gì nghi ngờ, có thể chui ngay xuống gầm sàn nằm, để móc ra một cái gì đó.
Có một lần khi mới lên, tù nhân Trần Huy Liệu thấy hắn vào buồng bèn thắc mắc:
"... Thưa ông."
"Gì?"
"Ăn uống ở đây kém quá, ông cho biết tiêu chuẩn của chúng tôi được như thế nào?"
"Cái gì. Tiêu chuẩn à. Các anh không có tiêu chuẩn gì hết. Cho thế nào ăn thế."
Xong,Phó Giám Thị đi tiếp. Đến lượt Chánh Giám Thị Vũ Đình Nhân nói về số phận của tù nhân. Thế là mọi sự đều đã rõ rang, các tù nhân đành cam chịu.
Mỗi Khu có chế độ đối xử riêng:
Khu A: Hưởng đồng loạt: 12 Kg sắn cộng gạo một tháng, được ngồi chơi trong buồng giam không phải làm gì cả. Cứ ở trong kiên giam suốt ngày đêm. Không được viết thư, không được nhận thư, không sách, không báo, không một mẩu giấy, không một cái bút.
Khu B: Ăn 13 kg 5 đến 15 Kg sắn cộng gạo một tháng. Được ra ngoài hè nhà đan lát, chẻ tăm làm việc vặt. Sáu tháng được viết thư một lần và được nhận thư.
Khu C: Ăn 15 Kg đến 18 Kg sắn cộng gạo một tháng. Được lao động ở sân trại: đánh đá xây trại, xây nhà, thợ mộc thợ nề biết gì làm nấy. Ba tháng viết thư một lần. Được mua thêm sắn, khoai, rong diềng, thịt trâu ăn thêm. Được coi là những tù nhân có phần nào đã chịu cải tạo. Được đối xử khá hơn Khu A và Khu B, tuy vẫn ở trong bốn tường rào và vẫn chịu sự kiểm soát ngặt nghèo.
Nhưng tất cả đều không được gặp người nhà và không được nhận tiếp tế, thăm nuôi.
Theo tù nhân họ Kiều đã nói ở trên: Khu C có một lần được mua sắn về luộc ăn. Say sắn chết mất năm người.
Đầu năm 1965 thì tù nhân họ Kiều được sang Khu C và đến năm 1965 thì anh được về suôi tại Phú Sơn 4, Thái Nguyên.
Ngày Tết Nhâm Dần 1961 tại Cổng Trời
Với cái Tết đầu tiên ở Cổng Trời năm Nhâm Dần 1961, anh được hưởng một cái Tết đặc biệt nhất trong đời anh.
Tết ở Các Trại Dưới.
(Trại Ngọc, Yên Bái; trại Da Thịnh, Tuyên Quang; Phong Quang, Lao Kay; Tân Lập, Phú Thọ; Tân Sơn, Lạng Sơn; và Vĩnh Quang, Vĩnh Phúc... )
Cứ lúc đói là anh Trần Huy Liệu nói chuyện với tù nhân họ Kiều về Cầu Giát Quỳnh Lưu Nghệ An, quê anh về thịt trâu, thịt bò, thịt me (bê), thịt lợn, thịt nghé rồi cá chim, cá thu, cá ngừ, cá dưa, cá cơm, cá cháo. Đời tù vui đáo để là thế mà cũng buồn đến não lòng.
Đầu óc anh thật đơn giản nhưng vô cùng tốt lành. Có lần đứng ở cửa sổ nhìn ra sân trại, anh quay lại bảo với tù họ Kiều: "Chiều nay ăn 'chốc tru'."
Tù họ Kiều ngớ người ra không hiểu, anh nhắc lại: "Chốc" là đầu, "tru" là trâu: đầu trâu.
Anh rất méo mó nghề nghiệp, giảng cho tù họ Kiều biết: "Đừng tưởng 'chốc tru' là toàn xương đâu. Khối thịt ra đấy. Bỏ sừng đi. Còn lại hai phần ba là thịt đấy."
Tù họ Kiều bảo: "Hai phần ba là xương thì có."
Anh cãi: "Cậu đếch biết gì, này lưỡi này tai, này mồm này má, này óc; xương không bao nhiêu đâu."
Và anh nói đúng sự thật, vừ nói xong vừa nuốt nước bọt làm tù họ Kiều thèm lây.
Những tháng rét, các tù nhân ăn sắn độn cơm và ăn lá bắp cải già nấu muối. Tiếu chuẩn nói là 12 kg sắn gạo, nhưng có lẽ chỉ còn độ 9, 10 kg thôi. Tù nhân đi lĩnh gạo ở mậu dịch về làm gì có cân đủ. Về để ở kho, lũ chuột bọ lại xơi hao hụt đi. Ban quản lý trại phân phát cho nhà bếp còn độ 10 kg. Nhà bếp còn giữ lại cháy để nuôi lợn nữa.
Lá bắp cải già đen, nấu trong chảo, hòa thêm muối khiến nước đen sì có vị nồng. Người ngoài trông không dám ăn, nhưng tù nhân ăn ngon lắm. Tù nhân ước mong nhà bếp cho đủ mặn thì tốt quá. Nhưng muối ăn cũng bị hạn chế. Tù nhân thường đổ thêm nước vào canh để cho đồ ăn có vẻ được nhiều hơn.
Và ai húp hết canh rồi, thì mới ăn đến cơm. Những lúc đó tù nhân họ Kiều cứ nghĩ lẩn thẩn, tại sao ở ngoài đời lại phải ăn cơm với thức ăn! Cơm không cũng đã ngon lắm, thế thì cần gì phải có thêm thức ăn nữa.
Cơm ăn nhà bếp đem lên nhà tù rất ít khi còn nóng. Từ nhà bếp lên đến buồng giam, thường người mang cơm phải mất thời gian khoảng hai tiếng đồng hồ. Cơm để trong chảo, rồi xúc ra đổ ra thùng. Sau đó,còn phải cân lại. Cân xong, gánh để ở sân trại. Hôm nào mưa thì để ở hè. Hôm trời rét, cơm canh nguội rất nhanh. Quản Giáo trực lúc đó mới mở cửa từng khu mộ, cho tù nhân ra lấy cơm theo thứ tự.
Khu C trước, rồi Khu B, rồi sau cùng mới đến Khu A. Đến lượt tới Khu A, thì cơm đã nguội ngắt. Đem vào buồng lại phải dằm nát ra để chia đều, cho công bằng. Chia bằng cân tiểu ly tự tạo từng xuất một. Thế là nguội lạnh hết cả. Ăn cơm xong coi như không ăn. Vì ăn vào lại thấy rét thêm. Dường như cơ thể phải tỏa ra năng lượng để hâm nóng cơm canh cho cân bằng với thân nhiệt.
Tù nhân thường phải khoác chăn vào mà ăn, nhưng ăn xong vẫn thấy rét. Đói và rét thường song hành với nhau. Người xưa thường nói: “Cơ hàn thiết thân” là thế. Trong những lúc đói rét đó, tù nhân rất mong Tết đến.
Dù sao chăng nữa, Tết trong các trại tù dưới, bao giờ cũng có bánh chưng. Có khi nhà bếp còn phân phát cả kẹo bánh nữa. Tuy chẳng là bao, nhưng cũng gọi là có thêm. Cũng như bao nhiêu người, mà tù nhân họ Kiều cũng mong Tết đến lắm. Anh thấy thòm thèm một viên kẹo bột dỗ trẻ, như lúc còn thơ ấu.
Tết đến may ra các tù nhân được một bữa no, lại có thêm tí đường. Những ngày lễ Lao Động 1-5, Quốc Khánh 2-9, tù nhân có được ăn thịt trâu, bò, hoặc lợn. Tù hình sự gọi thịt là "mều." Phần ăn có dăm ba miếng thịt, lại thêm mấy miếng lòng, thế là đời tươi rồi.
Tưởng tượng đến những ngày ấy, anh thấy bụng mình đã hơi lưng lửng. Mỗi lần đến Tết, nguyên bữa ăn có cơm, canh, thịt và miếng bánh chưng là anh thấy gần no rồi.
Anh thường luôn nghĩ đến câu:
"Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết."
Anh dồn cả bánh chưng phát chiều 30 Tết, và tất cả kẹo bánh dành cho sáng mồng một. Ăn vội hết cơm canh thịt xong, anh mới bóc xơi cái bánh chưng. Rồi ngoạm hết cái bánh chưng, anh mới tráng miệng nốt chỗ kẹo bánh, liền một lượt. Anh vươn vai đứng dậy, kể như là hết Tết.
Ở các trại dưới, chỉ có hai ngày Tết, chứ không có ba. Vì sáng mồng ba Tết, các tù nhân đã phải đi làm rồi. Đúng là lao động là vinh quang, tay làm hàm nhai, vì “nhàn cư vi bất thiện”.Trong tù, Tết bắt đầu từ chiều 30. Bữa ăn chiều 30 Tết bao giờ cũng có món lòng trâu, lòng lợn, thêm tí thịt thủ, tý mỡ vào canh lá bắp cải già. Vì buồi sáng 30 Tết, trại bận làm thịt lợn, thịt trâu cho Ban Giám Thị, Ban Chỉ Huy bộ đội kịp gói bánh chưng.
Bữa sáng mồng một Tết, tù nhân được ăn thịt hẳn hoi. Chiều lại ăn cơm rau như thường. Sáng ngày mồng hai,tù nhân còn được ăn một bữa thịt nữa. Chiều mồng hai lại ăn rau có thêm nước luộc thịt. Thế là thường tù nhân nào ăn xong, vẫn thấy còn đói.
Tết ở Cổng Trời Năm Nhâm Dần 1961...
Ở Cổng Trời, khií hậu một năm có hai mùa: Mùa nóng bắt đầu từ đầu tháng Năm; mùa rét từ đầu tháng Chín. Thường mùa nóng ngắn hơn hơn mùa rét. Gọi là nóng, nhưng đêm vẫn phải đắp chăn, vì khí lạnh từ núi đá và tường đất tỏa ra.
Tù nhân Nguyễ¬n Hữu Đang sáu tháng tắm một lần. Anh bảo: "Có ai chết vì không tắm đâu. Cậu xem đấy những anh nghiện thuốc phiện cả đời có tắm bao giờ đâu, chả sao hết."
Anh Đang nói chắc nịch, đúng như đinh đóng cột. Những lúc đói rét, cơ hàn thiết thân, tù nhân mới thấm câu: “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Đã đói, làm sao mà sạch được! Thấy đói rét, chỉ mới nhúng tay vào nước, ai cũng còn ngại, còn nói gì đến tắm. Đã rách rưới, mà còn muốn thơm. thật là oái ăm, người xưa thật quá khe khắt với thế hệ con cháu.
Tù nhân họ Kiều nửa tháng không dám rửa chân. Vì nếu rửa chân thì cái lạnh cứ dai dẳng bám lấy đôi bàn chân, dường như mấy ngày không ấm lại được. Cả ngày đêm, lúc nào, tù nhân cũng ngồi co ro trên sàn gỗ, có đi đến đâu mà bẩn, phải rửa! Thậm chí, Trần Huy Liệu cả thàng trời không đánh răng rửa mặt. Mắt anh ta đầy dữ, và mồm vêu ra đầy bựa, thật hôi hám.
Chiều 30 Tết hôm ấy,trời rét cắt da, cắt ruột, cắt thịt. Bầu trời ảm đạm xám xịt, chăng đầy mây. Trại tù im ắng như chết. Tù nhân họ Kiều đứng ở cửa sổ, nhìn qua song gỗ lim, thấy Nguyễ¬n Hữu Đang đứng ở sân trại nói với Phó Giám thị trại Quỷ Sứ người Đức Thọ, Hà Tĩnh.
Anh lắng nghe lõm bõm:
"Thưa ông, theo tục lệ cổ truyền của Việt Nam thì đến chiều 30 Tết, gia đình nào cũng làm mâm cơm cúng gia tiê, và ở các trại dưới tù cũng đều được cải thiện ăn thêm... Mong rằng ông cũng cho anh em chúng tôi..."
Nhưng có tiếng quát cao giọng ngắt lời Nguyễn Hữu Đang.
"Không có gì cho các anh cả. Biết chưa. Cấm không được đòi hỏi, yêu sách lôi thôi gì... Cho thế nào ăn thế..."
Rồi Quỷ Sứ quay ngoắt ra cổng trại. Chiều 30 Tết năm ấy vẫn lá bắp cải già nấu muối đen sì. Không hơn, không kém, mà vẫn như mọi ngày khác!.
Tết Trong Tù Vẫn có thơ
Thơ gắn liền với bàn tính người Việt Nam. Ở trong tù, thơ là một thú tiêu khiển của những người tù.
Hai ngày Tết trôi qua. Đến sáng ngày mồng ba, Cố Hoàng, một tù nhân có nhiều thâm niên, làm một bài thơ vịnh cái Tết đó, rồi đọc cho tù nhân nghe.
Thơ rằng:
Tết đến Nhâm Dần khốn nạn thay
Chiều 30 Tết vẫn ăn chay
Bánh chưng mong đợi thời không có
Thịt lợn vừa tròn ba đốt tay
Buổi sáng mỗi người hai cái kẹo
Bữa trưa dăm miếng thịt trâu gầy
Anh em ngao ngán nhìn cơm sắn
Khốn nạn thân tôi đến thế này...
Anh vốn ghét những người làm thơ không hay. Thế nhưng, những người làm thơ không hay, lại rất hay làm thơ. Và đã làm thơ thì thế nào cũng níu kéo chia sẻ với một người nào đó để đọc cho nghe. Anh khổ sở vì phải nghe những bài thơ đó. Hồi nhỏ, anh thấy thầy anh ngồi cùng các vị túc nho hay chữ, lúc trà dư tửu hậu có người lên tiếng đùa cợt nói:
"Ai mà nói dối, thì ăn câu đối cụ Nghè Bản"
Mọi người cười ầm lên.
Anh không rõ cụ Nghè Bản là ai và ở đâu. Nhưng suy ra chắc là câu đối của cụ thối lắm nên mới có câu nói cửa miệng đó.
Nó cũng như câu nói của Trạng thơ Cao Bá Quát:
"Câu thơ thi xã, con thuyền Nghệ An."
Đến giờ đây, ở đâu ai cũng làm thơ, thơ hay đến không ngửi được cũng đăng báo, xuất bản thành tập làm khổ người xem, người đọc.
Hình như ở đất nước này, ai ai cũng thích làm thơ. Ngay anh, một người Việt Nam chân chính, anh cũng mắc cái tật ưa làm thơ như ai. Nhưng vì anh là con nhà binh, nên làm thơ chỉ đạt đến trình độ của mấy ông quan võ ngày xưa mà thôi. Nghĩa là:
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đấy
Hoặc:
Chẳng phải voi cũng chẳng phải trâu
Ấy là con chó cắn gâu gâu
Rồi anh đọc cho cố Hoàng nghe. Cố sổ toẹt toàn bộ thơ của anh, bảo chẳng ra làm sao cả. Cố nói chỉ có mỗi một câu nghe được là câu:
Ngũ Tử Tư, Ngũ Tử Tư,
Tấm thân chìm nổi đến bao giờ
Cố Hoàng rất hay làm thơ và cũng ngâm lại cho anh nghe. Giọng cố ngâm rất hay, cố lấy làm thích thú lắm. Ra cái điều tâm đắc. Nhưng cố hát còn hay hơn nữa. Cố hay hát lại bài ca tụng các Thánh tử vì đạo của Cha Vinh (địa phận Hà Nội).
Nếu không có mẹ, ở nơi lưu đày...
Xin Mẹ hãy nghe lời con kêu van, khấn cầu đau đớn
và...
Dù gươm chém hay đầu rơi
Lòng vàng đá không hề phai...
Làm cho tù nhân họ Kiều thuộc đến tận bây giờ.
Và cũng như bài thơ Tết Nhâm Dần ở trên, cố cứ ngâm nga mãi, tuy rằng bài thơ không hay, nhưng nó lột tả được toàn bộ sự thật đau xót khốn khổ của cái Tết tù năm đó. Vì không có bài thứ hai, nên anh mạn phép chép lại, các vị cũng lượng thứ cho. Vì cái Tết của tù nhân đúng như vậy đó. Chỉ được ăn một bữa, bữa trưa ngày mồng một Tết thôi. Mà đói vàng mắt ra, vì mãi đến tận một giờ chiều mới được ăn.
Mọi ngày tù nhân ăn khoảng từ 8 đến 9 giờ sáng. Riêng ngày mồng một Tết, các quan còn bận ăn Tết nên không xuống mở cửa sớm. Mãi đến 10 giờ sáng mới xông đất mở cửa nhà bếp. Thế có nghĩa là ba tiếng đồng hồ sau, một giờ chiều tù nhân mới được ăn cơm sáng.
Mười giờ sáng, mở cửa, phát cho mỗi người hai cái kẹo. Lại đóng ngay cửa lại. Sau khi tù khênh cứt đái ra ngoài đổ, tù nhân lại vào buồng ngồi chờ cơm. Trong khi chờ đợi, thì thưởng thức hai cái kẹo ăn dỗ trẻ con. Cả lũ tù phải nhịn đói đến một giờ chiều. Đúng như lời trong thơ tả:
Bữa trưa dăm miếng thịt trâu gầy
Và ba miếng thịt lớn bằng ba đốt ngón tay, và, của đáng tội, còn được thêm mấy miếng lòng nữa mà cố Hoàng không chép nhét vào trong bài Thơ Đường đó được.
Bài thơ không được hoàn chỉnh lắm và có thể thất niêm thất luật. Nhưng nó đúng, đúng với sự thật đau xót. Tết vẫn ăn cơm độn sắn, đắng ngắt. Nhưng cái kết không có hậu. Khốn nạn thân anh đến thế này thì thật là mệt quá.
Riêng anh, anh vẫn muốn có một happy end, vẫn muốn có Tiên Điền Nguyễn Du vớt nàng Kiều ở sông Tiền đường lên cho tái hồi Kim Trọng, anh vẫn muốn sống và trở về tự do, về nhà cùng mẹ và vợ con anh, nên anh mạn phép cố Hoàng cho anh sửa lại câu cuối. Cố bảo thì sửa đi. Anh sửa thành:
"Ước đến sang năm khác thế này."
Cố gật đầu bảo: "Thôi cũng được."
Thế là bài thơ đó như sau:
Tết đến Nhâm Dần khốn nạn thay
Chiều ba mươi Tết vẫn ăn chay
Bánh chưng mong đợi thời không có
Thịt lợn vừa tròn ba đốt tay
Buổi sáng mỗi người hai cái kẹo
Bữa trưa dăm miếng thịt trâu gầy
Anh em ngao ngán nhìn cơm sắn
Ước đến sang năm khác thế này.
Có thể là vì câu thơ cuối, mà cố Hoàng thì nằm lì chôn thân nơi đó, còn tù nhân họ Kiều may mắn trở về để viết lại câu chuyện này hôm nay.
Bài Anh Hùng Ca Tử Đạo Của Nhiều Tù Nhân Tín Hữu
Khung cảnh một trại tù Cổng Trời như thế đã là nơi sinh sống muôn thuở của nhưng tù nhân như Linh mục Nguyễn Văn Vinh. Dúng là Cổng Trời là nơi đã đón tiếp biết bao anh hàng liệt sĩ Công giáo về cõi Vinh Phúc. Không có đau khổ vì đức tin kiêu hùng trung kiên, người tín hữu không thể vào chốn vinh quang muôn đới.
Cùng với nhiều tù nhân chia sẻ cùng số phận, nhiều tù nhân, cùng đức tin cũng như ngoài đức tin Công giáo, kể cả kẻ đã bách hại ngài, đã cùng nghe Ca Đoàn tù nhân đau khổ luôn reo ca bài hát Vết Tử Hùng’ của Văn Thi và Tâm Bảo vì đức tin Kitô. Linh mục, tu sĩ, trùm trưởng,… đã anh hùng bất khuất bạo lực, noi gương các thánh tử đạo, noi gương đức Kitô trên đường Thánh Giá
Bài hát đó trở thành bài thánh ca nuôi dưỡng lòng trong kiên, chuẩn bị đưa Linh Mục Nguyễn Văn Vình cùng với bao con người đau khổ nhưng anh hung, vào Nước Trời Vĩnh Cữu. Xứng đáng thay, một linh mục tử đạo kiêu hùng giữa Ca Đoàn Tù Nhân Tử Đạo, hát vang tiếng ca Vết Tử Hùng:
Điệp khúc:
Kìa Ai còn lưu tiếng Thiên Thu
Cương quyết vì Đạo Chúa hiến thân
Lời ai hòa trong gió âm u
Máu ai còn tiếng vang xa gần
Dù Kiếm Sắc Cần chi
Dù gong mang xá gì
Treo gương cho khắp thế soi chung
Trong đau thương chí khí anh hung
Lòng vàng đá không hề chi
Rầy cùng Chúa được vinh phúc trên Cõi Trời
Câu riêng
1. Càng nung nấu nhiều, vàng thêm trong thêm sang tươi.
Gươm giáo kia ai hay chứng lòng sắt son.
Càng đau đớn nhiều càng thêm hoa trên đường mới
Dắt lên chốn Trời cao còn hạnh phúc nào hơn
2. Đời bao tháng ngày lòng cao siêu không vướng chi.
Sung sướng như mây bay dóng đới tối tăm.
Tìm nơi phúc thật hiền nhân xưa kia bền chí
Bước cay đắng trần gian: đường vinh phúc ngàn năm
3. Lòng tin Chúa Trời tình thân yêu khăng khít liên.
Trong gió mưa tân toan vững niềm kính tin
Còn thêm suối lành đoàn hậu sinh nay tìm đến
Dám dâng các tiến nhân lời tha thiết cầu xin
Cậu chủng sinh họ Đỗ đã bao lần nức lòng khi đồng ca bài hùng ca bất diệt đó với các bạn hữu, củng cố thêm niềm tin sắt son vào Ơn Trên giữa những cơn đau khổ triền miên trong dòng đời, phương chi người đó là Kitô hữu. “Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong vinh quang!”
Một Kết Luận: Chuyện Hậu Sự Của Người Dương Thế
Hồi 19h30 ngày 12.10.2007 sau khi bế mạc Đại Hội Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, giám mục Hoàng Đức Oanh, Giáo Phận Kontum, với tư cách nghĩa tử của cha chính Vinh, đã rời Toà Giám Mục Hànội về Giáo Xứ Ngọc Lũ (Hà Nam) cách Hà nội hơn 90 km. Ngọc Lũ là quê hương của cha chính Vinh, nơi lưu giữ di cốt của cha chính Vinh sau khi cải táng.
Hồi 4h30 sáng 13.10.2007 Thánh Lễ đồng tế do Hoàng Đức Oanh Giám Mục Kontum, và linh mục thư ký cử hành tại nhà thờ Ngọc Lũ
Một chút di cốt ít ỏi, các mảnh vải áo cha mặc khi chôn cất nay may mắn còn sót lại, một ít mùn đất nghi rằng do xương của cha mục nát tan ra.... Tất cả được thu gom trong các túi nhỏ đặt trong một quan tài bằng kính, được đặt và tôn kính tại gầm bàn thờ bên trái của nhà thờ Giáo Xứ Ngọc Lũ.
Hồi 4h30 sáng 13.10.2007 Thánh Lễ đồng tế do Giám Mục Kontum, và linh mục thư ký cử hành tại nhà thờ Ngọc Lũ để cầu nguyện cho cha chính Vinh và các người đã qua đời của Giáo Xứ Ngọc Lũ. Sau Thánh Lễ Giám Mục đến thăm mảnh đất hơn 07 sào, xưa là nhà của ông bà thân sinh cha chính, năm 1993 đã được bán lại cho một gia đình khác (cũng là người công giáo).
Anh Phạm Văn Lý, người thông báo những giòng chữ này với một số hình ảnh về buổi lễ đó với một nhúm tro cốt, cùng mọi người có mặt hôm ấy, đều vô cùng bàng hoàng và cảm động, khi quì trước di cốt cha chính..., vị tử đạo khả kính của cộng đồng Dân Chúa Hà Nội cách riêng và của toàn thể giáo Hội Việt Nam nóì chung.
Hãy cầu nguyện và tha thứ cho những kẻ lầm chẳng biết, dù chúng cố ý hành hạ làm khốn người vô tội nhưng một lòng son sắt với đức tin Kitô giáo.
Xin Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Phù Hộ Cho Đoàn Con Đất Việt!
Một Số Tài Liệu Tham Khảo
Tư liệu đặc biệt:
Huynh Hà, Đặc San Huynh Hà. Viết Về Địa Phận Hà Nội. Sàigòn, 2/7/1971, 100t., 21x32cm
Huynh Hà, Kỷ Yếu Huynh Hà. Uống Nước Nhớ Nguồn. HCM, 1996, 224t, 14x21cm.
Huynh Há, Kỷ Yếu Huynh Hà.Tìm Về Cội Nguồn. HCM, 1997. 446t +74t (phụ), 14.5x21cm, nhất là các trang 300-301. Ngân Khánh 7 LM gốc TGP Hà Nội, trong đó có LM Hoàng Đức Oanh.
Bạn Đường, Kỷ Niệm Ba Mươi Năm Bạn Đường (1960-90). Kỷ Niệm Hai Mươi Lăm Năm Giám Mục của GM. Nguyễn Văn Hòa (58 năm Bạn Đường sống bên nhau. HCM, 29.04.2000, 362t, A4, font 14
Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Tổng Giáo Phận Philadelphia. Đặc San Kỷ niệm 25 năm (1975-2000). [Tám Cộng Đoàn].Hoa Kỳ, 19/11/2000 Tông Đồ Mục Vụ Việt Nam (1719 Morris St., Philadelphia, PA. 19145. Tel: 215-755-8369), 184tt., 15x25cm
Huynh Hà, Về Nguồn Huynh Hà. HCM, 4/8/2002, 58t., 14x21cm.
Mậu Hải Chúa Gọi. Hồi Ký. Kỷ niệm 50 năm linh mục và thương thọ bát tuần LM Inhaxiô Mai Xuân Hậu 30/5/2003. Không đề nơi ấn hành, vi tính, 97 trang,15x25cm
Bạn Đường, Kỷ Yếu Kim Khánh Bạn Đường (Giáo Phận Hà Nội), 1953-2003. Sài Gòn, 2004, 329t., A4, in rônêô, font 14. Kỷ Niệm I. Viết về Tràng Tập Hà Nội, II. Hoàng Nguyên Phú Xuyên Hà Đông, III. Piô XII Hà Nội. IV.Thăm Miền Tây II. V.Xây Dựng Nhà Thờ Trung Hải. VI. Sinh hoạt Bạn Đường
Hội Ái Hữu Địa Phận Hà Nội: Kỷ Yếu Hà Nội 2004. Mười Lăm Năm Thành Lập Hội Ái Hữu Địa Phận Hà Nội Nam California (1988-2003). USA, NV printing (7775 Westminster Ave., Wesminster, CA 92683), 340tr, A5.
Hồng Nhuệ (Nguyễn Khắc Xuyên), Lược Sử Địa Phận Hà Nội, 1626-1954. Lời tựa, ghi ở Paris ngày 2/9/1994. Lưu hành nội bộ, 576t, 20x29cm + 168t. Ảnh và tư liệu. Nha Trang, 4/3/1999. xviii-628t., 20x29cm
Bùi Đức Sinh: Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.
Quyển I.-(1430-1833). USA, CA [Profess Printing Inc., San Jose, California], 2001, in lần 3, 513t, 15x25cm
Quyển II. – (1820-1911). USA, CA, in lần 3, 2001, 619t, 15x25cm.
Quyển III. – (1900-1975). USA, CA, in lần 3, 2001, 550t, 15x25cm
Nhiều tác giả. Ba Mươi Năm Công Giáo Việt Nam Dưới Chế Độ Cộng Sản 1975-2005. 8.2005, NS Diễn Dàn Giáo Dân & Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại Cơ Sở Dức Quốc, Mỹ và Âu Châu ấn hành, 649t, 16x27cm
Văn Phòng TTK HĐGMVN Giáo Hội CGVN: Niên Giám 2004 (Năm Thánh Truyền Giáo). Nhà XB Tôn Giáo (Nhà In Trần Phú, I HCM), Hà Nội, 2004, 960t, 15x21.5
Văn Phòng TTK H ĐGMVN Giáo Hội Công Giáo Việt Nam: Niên Giám 2005. NXB Tôn Giáo, In lần II, Nhà In Trần Phú, 71-75 Hai Bà Trưng, Quận I, Tp HCM), Hà Nội 2005, 965 trang.
Một Số Websites, Emails Khác:
- Notice biographique du missionnaire Dépaulis au Tonkin, http://archivesmep.mepasie.org/recherche/notices.php?numero=2576&nom=
- Notice nécrologique du missionnaire Dépaulis au Tonkin, http://archivesmep.mepasie.org/recherche/notices_necro.php?numero=2576&nom=DEPAULIS
Toàn Văn Sắc Lệnh 234 về tôn giáo tại nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 14/6/1955 do Hồ Chí Minh ký và ban hành
http://vbqppl.moj.gov.vn/law/vi/1951_to_1960/1955/195506/195506140001/view
- Tran Minh Tien trantien@hcm.vnn.vn; Tài liệu 7:29 am (39 minutes ago to"GM. Tran Xuan Tieu" Oct 16, 2007 7:29 Fw: CHA CHÍNH VINH AM.
- Trong số bốn vị trên, Lm Vịnh chết trong tù ở trại Cổng Trời, Lm Thông 27 năm tù,... .. 11. Bá cáo của Nguyễn Đình Đầu viết về Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình. www.vnfa.com/anews/0710_093.html - 61k - Cached - Similar pages - Note this
- Hãy nhìn mấy cha thầy ẩn tu ở Thiên An mới bị tịch thâu trên 100 mẫu đất... Lạng quạng là có chầu đi nghỉ mát ở trại Cổng Trời như cha Nguyễn Hữu Lễ ngay.... www.longtien.org/httpdocs/cxphuchung/files/chauvehpho.html - 15k - Cached - Similar pages - Note this
- Tử tù Cổng Trời, bị cởi bị trồng (Cởi Trồng = Cổng Trời)... . Và cũng lắm lúc chính cha ông chúng nó đã bị đàn anh Trung Cộng hống hách, bắt nạt,...
www.ausviet.net/readessay.asp?Title=forum/nnguyen/20080125100004.txt - 45k - Cached - Similar pages - Note this
- Việt Thường: Ghi nhớ về lễ noel hà-nội. ĐOÀN TỤ...
NĂM 1954... ĐỂ CHIA LY HƠN. TỪ ĐẤU TỐ... ĐẾN VU CÁO NHỮNG NGƯỜI MỘ ĐẠO. VẾT DẦU LOANG. MÁU TƯỚI VÙNG CAO. NƯỚC MẮT VÙNG THẤP. NÔ-EN 69 VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO.
Chính là từ cái năm 1968 này, các nhà thờ tự nhiên buổi lễ có đông con chiên. Họ đến để cầu nguyện cho con, em, chồng, cha...đã bị "sinh Bắc, tử Nam "....
www.vietthuongonline.com/mainarticles/ghinholenoelhanoi.htm - 66k - Cached - Similar pages - Note this
- Nguyễn Văn Lục: (NVL) Thưa anh Nguyễn Chí Thiện, xin nói thật,... . Tôi có bị giam ở trại tù Phong Quang, Lào cay và tôi đã gặp Vũ Thư Hiên trong vòng ba... phanthanh.multiply.com/reviews/item/74 - 44k - Cached - Similar pages - Note this
- Dữ nhất, theo họ, vẫn là Cổng Trời mà tôi đã nói tới ở trên.... .. Nhìn cảnh những Kiều Duy Vĩnh, Nguyễn Chí Thiện, Lê Trình, Văn Thợ Mộc, Tôn Thất Tần......
www.quocuy.com/forum/viewtopic.php?p=1903&sid=abeefb011df6615e9685ccfd08b48b45 - 70k - Cached - Similar pages - Note this
- Sợ lộ sẽ bị bắt tù, chỉ vì ông mắc tội yêu nước, dám chống đối nhà cầm quyền thực... . Hai cha con về đến nhà trời đã xế trưa, bà Biểu Cô, chị họ ông Woòng,...
vietbay.com/docs/haingoai_truyen1/nguyenthi_vinh1.html - 24k - Cached - Similar pages - Note this
- Ông "Cổng trời"
Lao Động số 83 Ngày 12/04/2007 Cập nhật: 9:37 PM, 11/04/2007. (LĐ) - Dân bản gọi già làng Và Phái Tểnh là ông "cổng trời" không chỉ bởi cái bản của ông "mọc" trên chót vót eo rừng quanh năm mù sương. Ông "cổng trời" còn có nghĩa - người đã mở ra một "cổng trời mới" biến "thủ phủ" ma tuý Mường Lống, một địa bàn di dịch cư phức tạp thành điểm sáng của huyện biên giới Kỳ Sơn (Nghệ An).
Bản ta ngày xưa là thung lũng ma tuý"
- (LĐ) - Dân bản gọi già làng Và Phái Tểnh là ông "cổng trời" không chỉ bởi cái... Còn khoảng thời gian từ 1975 về trước, ông là giáo viên dạy chữ Mông ở Tây...
www.laodong.com.vn/Home/phongsu/2007/4/31668.laodon - 56k - Cached - Similar pages - Note this
- Một thời gian ngắn trước khi cha Nguyễn Văn Lý bị bắt, VC đã tung ra rất nhiều... . trại giam ở miền Bắc. Trại Thanh Cẩm và nhất là trại Cổng Trời chắc chắn...
saigonxua.blog.ca/2007/03/04/on_ca_7889_truy_tan_pha_7843_i_cha_7871_~1847816 - Similar pages - Note this
- KIỀU DUY VĨNH: TẾT Ở TRẠI CỔNG TRỜI
Chỉ nhìn thấy Cha Vinh, Cha Quế vào đó và không thấy hai cha đó ra về nữa mà... Ở Cổng Trời một năm chia làm hai mùa: Mùa nóng b¡t đầu từ đầu tháng Năm;...
www.hungviet.org/ncct/kieuduyvinh_ct2.html - 21k - Cached - Similar pages - Note this
- K. Vĩnh TK21 #98, Tháng 6 1997: Hồi Ức Cuộc Tuyệt Thực Ở Trại Cổng Trời. 1/8 Âm lịch năm 1994
K. Vĩnh 2003-10-25 13:02:01
- Kiều Duy Vĩnh: Đức Thánh Tử Vì Đạo Thứ Hai Mà Tôi Được Gặp. Kiều Duy Vĩnh TK21 #100 Tháng 8 1997
http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=6973
2003-10-25 12:48:03
- Trong số bốn vị trên, Lm Vịnh chết trong tù ở trại Cổng Trời, Lm Thông 27 năm tù,... .. Bá cáo của Nguyễn Đình Đầu viết về Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình....
vietcatholic.net/News/Html/52570.htm - 46k - Cached - Similar pages - Note this
Oakland, CA Đỗ Hữu Nghiêm biên soạn xong ngày 17/4/2008.5. Ngày sinh nhật Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, nhân chuyến đến thăm Hoa Kỳ ngày thứ hai (15-20/4/2008) tại Washington D.C.
Đây là bản sơ thảo cần nhiều bổ sung chi tiết chính xác. Quý vị nào có những tư liệu liên hệ để hiệu chính, xin vui lòng cung cấp cho người biên soạn theo địa chỉ: email: nghiemdohuu@gmail.com
Bối Cảnh U Ám Thời Chinh Chiến Đầu Thập Niên 1950 tại vùng Đồng Văn, Phủ Lý, Hà Nam Bắc Phần Việt Nam
1.
LM Nguyễn văn Vinh |
Đoạn đường cậu di chuyển từ Tiểu chủng viện Thánh Phêrô Hoàng Nguyên, trong vùng Cộng Sản chiếm đóng sang vùng tề (quốc gia không Cộng Sản) sau những ngày hè có nhiều xáo trộn đặc biệt. Hoàng Nguyên thuộc Quận Phú Xuyên, Tỉnh Hà Đông. Tình hình này diễn biến từ tháng Năm đến Tháng Tám năm 1952.
Khu chủng viện và nhiều làng xóm chung quanh đó thuộc Quận Phú Xuyên và Huyện Duy Tiên, Hà Nam đã nằm trong vùng kiểm soát của quân du kích Cộng sản, sau một thời gian ở trong vùng tề của quân đội Liên Hiệp Pháp. Trong lúc rời chủng viện Hoàng Nguyên về làng Hòa Khê, nơi sinh nhau cắt rốn của mình, dưới bộ đồ trắng cậu phải đi vội như chạy, trên đường đá bên kia con sông đào Hòa Khê. Mắt cậu như như dán chặt, trông chừng chiếc máy bay do thám bà già liên tục cứ xà thấp xuống quan sát toàn khu vực.
2. Về đến nhà, cậu chủng sinh thấy Mẹ và hai chú em trai đang vùi đầu chuẩn bị các thứ đồ đạc, thức ăn cho cậu rời làng Hòa Khê. Đạn móc chiê ùng oàng bắn loạn vào vườn, chẻ nát bụi tre làng, bên cạnh nhà. Mẹ vội giục giã con đi sớm ngay vào Đồng Văn để tránh nguy hiểm, không kịp ngó lại những kỷ niệm thời thơ ấu trong thửa vườn đầy luyến thương. Ngay chiều sâm sẩm tối hôm ấy, mẹ con cậu âm thầm mang vào Đồng Văn cho Cha cậu đã chạy vào đó từ trước. Họ khẩn trương chuẩn bị cho cuộc di chuyển của toàn thể gia đình cậu tản cư lên Hà Nội.
Tuy chậm chân thoát ly làng lên thành thị cải thiện cuộc sống gia đình, nhưng đó là cơ hội bắt buộc vì hoàn cảnh chiến tranh, gia đình cậu phải đi, dù tương lai ra sao. Cậu cùng mẹ đầy âu lo vội tìm, đi theo các lối khuất giữa các ruộng ngô khoai hay các bờ ruộng nhô cao khô ráo. Mẹ con cũng đã tới được nơi căn nhà cha cậu tản cư và tạm ngụ cùng với anh Truyền, Phổ đã đi từ trước, và anh Nguyễn. Anh này là con trai con ông Cửu Hoàn, anh ruột cha cậu mà cậu thường gọi là Bác Hoàn.
Đó là một gian nhà lợp vội bằng tre rơm rạ, trống trải mà người ta cất lên và cho thuê ở trạm Đồng Văn, bên vệ đường quốc lộ số 1, đã bị quân du kích Cộng Sản đào nát ở nhiều chỗ theo chữ chi, để “tiêu thổ kháng chiến chống Pháp”. Ban ngày ngoài đường ai nấy đều nhốn nháo, kẻ đi lên người đi xuống, chạy trốn cảnh chiền tranh. Cậu, như con thiêu thân, say mùi thuốc pháo và hơi xăng xe ô tô Ngựa Bay và nhiều hãng khác, chạy trên quốc lộ. Ban đêm, súng móc chiê từ Bót Cống Nhật Tựu gần Sổ Nghệ hay phía sau làng Động Linh, bắn ùng oàng vào các làng bị chiếm đóng nằm hai bên đường quốc lộ số một.
Các toán lính đi tuần ban đêm trên đường trước mái nhà tranh sơ sài mà người ta ngủ bên trong. Qua những khe hở qua phên liếp tre đan, dưới ánh đèn điện vàng khè leo lét, hầu như cả nhà từ bên trong, ai cũng đều ngó xem những toán lính từ đâu trên xe tải nhà binh đổ xuống. Họ đi tuần ngay bên ngoài mặt đường. Người ta nơm nớp lo sợ khi có nhiều tiếng súng lớn nhỏ nổ ran, chung quanh đồn gần đó, khua tan đêm ngủ không tròn giấc.
Từ trạm ga Đồng Văn, một hôm anh Truyền và cậu đi xe đạp trên đường số một đã bị đào chằng chịt, hạn chế việc di chuyển của quân đội Liên Hiệp Pháp và những chuyến ô tô của dân buôn. Hai anh em xuống thăm chị Hợi ở làng Kẻ Sở (Hồng Phú), rồi vòng lên huyện lỵ Phủ Lý vào thăm gia đình anh chị Xã Hòa. Gia đình này đã rủ gia đình ông bà Hàn Tịch cùng tản cư xuống đây. Bà Hàn Tịch là chị ruột của Lý Phẩm, và hai cô chú ấy đều là em họ hai cậu Ở Nam Định, anh Doanh đã phải bỏ nghề dân quân tự vệ tại các bốt (postes) trong các làng vừa bị quân kháng chiến chiếm đóng, để tham gia quân đội Liên Hiệp Pháp, khi vùng tề bị đánh phá chiếm đóng. Anh đang lái xe Jeep cho một viên sĩ quan Pháp, nhưng chuẩn bị đào ngũ để mang gia đình và con cháu tản cư lên Hà Nội. Anh kiếm thuê một miếng đất ở phố Đội Cấn, Khu Ngọc Hà, Hà Nội để nuôi sống gia đình trong những ngày chạy loạn lên Hà Nội.
Đi Hà Nội Lần Đầu Tiên
Cậu đi Hà Nội trước để kịp gia nhập chủng viện. Cha cậu, anh Truyền, anh Phổ và anh Nguyễn trù liệu thu xếp chuyển lên Hà Nội sau. Cha cậu sẽ đến cư ngụ tại số 78 Phố Đội Cấn Khu Ngọc Hà, Hà Nội, chung nhau mở hiệu thuốc Bắc, người góp công kẻ góp của, với cha con ông bà Dần. Ông bà này người thuộc giáo xứ Chằm hạ, mới trúng sổ xố nên có đủ tiền mua nhà ở Hà Nội.
Còn gia đình anh Ngoạn, Nguyễn tạm trú tại nhà anh Ba Khoa, thuê tại gần khu Thái Hà Ấp, cùng với anh Truyền, Phổ, hai anh ruột lớn của cậu. Khi cha cậu lên cư ngụ ở Phố Đội Cấn, ông mở cửa hiệu thuốc làm Đại Lý Nhà Thuốc Đông Hoa để kiếm tiền sống qua ngày.
Khi cha cậu ổn định tại đây, thì mẹ cậu, chị Hợi, anh Truyền, Phổ cũng đến thăm cha cậu tại Hà Nội. Chị ở chơi Hà Nội mấy ngày thăm cha mẹ, các em, rồi trở lại Hồng Phú. Anh Phổ ở lại Hà Nội, học nghề may với anh Ba Khoa, còn mẹ lại đi đi về về nhiều lần sau mới lừa quân du kích trong làng bỏ nhà hẳn đi lên Hà Nội với hai em Trang và Dzong
Gia Nhập Tiểu Chủng Viện Piô XII Hà Nội Sau Hè 1952
Trong bối cảnh ly tán của những người thân trong gia đình, cậu chủng sinh đã chuyển trước lên cư ngụ Quần Ngựa, gia nhập tiểu chủng viện Piô XII, lúc đó đặt cơ sở tại Trường Lacordaire mà chủng viện tiếp quản từ các linh mục thừa sai Paris. Trước đó các thừa sai này (cụ thể là Linh Mục Paul Seitz Kim coi Cô Nhi Viện Thị Xã Kitô Vương, về sau chuyển đến Gò Đống Đa, lối đi xuống thị xã Hà Đông) tiếp nhận từ các linh mục dòng Đaminh chi tỉnh Lyon tại Việt Nam. Cô Nhi Viện vừa tản cư từ cơ sở tại Sơn Tây về Hà Nội.
Thụ Huấn với Linh mục Nguyễn Văn Vinh, cha giáo Pháp Văn và Âm Nhạc
Từ đó, cậu theo học, được xếp vào lớp Đệ Thất, lớp nhỏ nhất trong chủng việc khi đó và từ đó biết chút ít về Linh mục Nguyễn Văn Vinh. Lúc ấy Linh mục mới ở Pháp trở về sau mấy năm du học tại Pháp. Ngoài LM Vinh, con có một số linh mục mới từ bên Pháp về nước: LM Lê Văn Lý, Đình Lưu Nhân, Nguyễn Văn Khiết. Về sau, khi chủng viện vào Nam, thì có thêm các Linh mục Nguyễn Ngọc Oánh, Nguyễn Minh Thông, và Nguyễn Hân Quynh.
Như cậu nghe biết, ngài sinh tại làng Ngọc Lũ, Nam Định, chưa có tư liệu để biết ngày sinh tháng năm sinh của ngài, nhưng chắc là sấp xỉ cùng tuổi với linh mục Lê Văn Lý (1913-1992). Ngọc Lũ là một làng quê gần núi Đọi Đệp, hay Đọi Sơn, gốc gác nổi tiếng của Trống Đồng Ngọc Lũ. Đó cũng là nơi xuất phát nhiều dòng tín hữu tử vì đạo trong thời kỳ cấm đạo (1771-1885). Trong thời gian du học tại Pháp Linh mục Nguyễn Văn Vinh đã gia nhập dòng Biển Đức. Nhưng khi về Hà Nội, cậu chỉ biết Linh mục là một giáo sỹ thuộc địa phận Hà Nội. Linh mục say mê và rất giỏi Violon. Tôi nghe nói là Linh mục đỗ đầu trong các thí sinh trúng tuyển kỳ thi vĩ cầm (violonistes lauréats) ở Conservatoire National Supérieur de Musique de Paris.
Thừa Sai Dépaulis Hương (1876-1950), Đỡ Đầu Linh Mục Nguyễn Văn Vinh
Joseph, Antoine Dépaulis sinh ngày 27/4/1876, tại giáo xứ Thánh Jean Baptiste, ở Rive-de-Gier, hạt La Loire, giáo phận Lyon. Cậu theo trung học tại TCV Montbrison, rồi lên học triết ở chủng viện Lyon, và ở đó ngày 28/5/1896 thầy chịu phép cắt tóc.
Ngày 4/10/1898 Thầy vào chủng viện thừa sai, chịu các chức nhỏ từ 1899-1901 và thụ phong linh mục ngày 23/6/1901. Ngày 24/7/1901, tân linh mục được lệnh sang truyền giáo ở Địa phận Đại Diện Tông Tòa Tây Bắc Kỳ (Hà Nội), Việt Nam.
Sau thời gian học tiếng Việt, Cha Dépaulis được bài sai đi coi xứ Kẻ Bèo (Đồng Bào, nơi công đoàn mà Thánh Théophane Vénard (Thánh Ven) và xứ Kim Bảng, làm phó xứ cho Cha Chalve, đã phụ trách trông coi hai xứ khác.
Năm 1904, GM Hà Nội Gendreau Đông bổ nhiệm ngài làm chính xứ Ngọc Lũ. Chính thời gian ngài quản nhiệm Ngọc Lũ, v à mấy xứ khác lân cận, ngài nhận đỡ đầu cho cậu Nguyễn Văn Vình.
Năm 1920, Linh Mục Dépaulis nhận trách nhiệm làm quản lý Hội Thừa Sài ở Hà Nội. Ngài hết sức tích cực để hoàn thành nhiệm vụ mới. Ngài chuẩn bị các tài nguyên cho tương lai. Ngài điều khiển xây cất trường thử, nhà quản lý và nhà ở mới, hai trường học mới, một cho con trai, một cho con gái trong giáo xứ nhà thờ lớn, một cư xá sinh viên.
Ngài nổi tiếng là một người hăng say hoạt động, có tài quán xuyến công việc xây dựng và tố chức, trong đó có tài âm nhạc. Có thể vì thế thiên tài âm nhạc của ngài đã tác động nhiều đến người con đỡ đầu Nguyễn Văn Vinh.
Năm 1930, hai giám mục Gendreau Đông và Marcou Hành về Pháp, tham dự Đại Hội Hội Thừa Sai Paris. Nhân đó các ngài đem theo 12 chủng sinh Bắc Kỳ cùng đi với các ngài. Linh mục Dépaulis tháp tùng phái đoàn. Linh mục lưu lại Pháp để bồi dưỡng sức khỏe từ tháng 6/1930 đến tháng 3/1931, đồng thời tham gia học hỏi thêm những phương pháp làm tông đồ mới. Trong hai tháng, ngài đã nhiều lần thuyết trình tại các học viện và chủng viện ở Bỉ và Pháp.
Đây là chính thời gian các vị thừa sai miền Bắc chuẩn bị hàng ngũ chủng sinh thành những linh mục đủ tài đức về làm việc cho giáo hội Việt Nam, cụ thể là giáo phận Hà Nội. Về sau trong kế hoạch đó, địa phận Hà Nội có các linh mục Lê Văn Lý, Đinh Lưu Nhân, Nguyễn Văn Khiết, Nguyễn Huy Mai, Nguyễn Hân Quynh, Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Minh Thông, Nguyễn Xuân Oánh (Hà Nội), Nguyễn Văn Bồng (Thanh Hóa).
Trở lại Hà Nội, ngài phụ tá cho Linh mục Dronet, chính xứ nhà thờ lớn. Từ năm 1931 đến tháng 12/1935, ngài coi sóc việc xây dựng và trang trí nhà thờ Đức Bà Các Thánh Tử Đạo, xây một phòng làm việc, một nhà xứ tiện nghi. Về sau ngài đến cư trú đó năm 1934. Ngài hăng hái tồ chức đoàn nghĩa binh thánh thể, xuất bản một bản tin tiếng Việt, và củng cố đoàn hướng đạo đầu tiên của Hà Nội.
Năm 1936, Linh m ục Dépaulis được bổ nhiệm quản trị một giáo xứ mới được xây dựng quanh ngôi nhà nguyện Thánh Antôn khiêm tốn. Chính ngài đã tậu một thửa đất khá rộng để xây dựng một trung tâm giáo xứ với một nhà thờ, một nhà ở, một phòng làm việc và trường học.
Ngài hăng say xây dựng các công trình để qui tụ các tin hữu trong khu vực và giúp đỡ các người nghèo: Quân Binh Thánh Thể, Hội Vinh Sơn, Công Giáo Tiến Hành, các tập thể thanh niên Việt Nam, các trại hè, v.v…Chủ Nhật ngày 7/5/1939, nhà thờ mới Thánh Antôn được khánh thành.
Tháng 3/1940, ngài được bổ nhiệm làm đại diện của các phái đoàn truyền giáo Bắc Kỷ ở Quỹ Brévié. Tổ chức này có mục đích trợ giúp các trẻ em lai, chủ yếu là Pháp Việt, bị bỏ rơi.
Tháng 3/1945. Cha Dépaulis bị chấn động mạnh do biến cố quân sự Nhật đảo chính Pháp. Trong các tháng tiếp theo, khi Việt Minh nổi dậy, ngài phải chịu nhiều cảnh khốn đốn đau khổ do tinh thần ngoan cố của giới thanh niên và do các biến cố xảy ra..
Một thanh niên đã dám dùng tay đánh ngài. Được cha Khuê, người Việt Nam lúc đó làm phụ tá cho ngài, giúp đỡ tận tình, ngài cố gắng chịu đựng và thích ứng. Ngày 19/1/1946, ngài phải lánh nạn, tạm trú ở các văn phòng trong hãng Shell gần đó ít ngày. Sau đó mới có thể gặp lại Phái Đoàn truyền giáo. Từ lúc đó, ngài mất hết khả năng tự chủ và phải từ nhiệm rồi buộc phải hồi hương về Pháp. Có thừa sai Chabert thuộc phái đoàn truyền giáo Hưng Hóa đi theo ngài đến Marseille ngày 4/6/1948. Từ đó ngài được chuyển đến Montbeton.
Một trong những niềm vui cuối cùng của ngài là Giám Mục Trịnh Như Khuê đến thăm Ngài. Linh mục Khuê, phó xứ cho ngài trước kia, bây giờ được bổ nhiệm Giám Mục Hà Nội. Linh mục Hương Dépaulis chết tại Montbéon, sau nhiều đau đớn kéo dài ngày 3/12/1950
Vài Kỷ Niệm Thâm Tình Với Linh Mục Nguyễn Văn Vinh
Giảng dậy, linh hướng
Hai kỷ niệm nhớ nhất mà tôi có cho đến nay khi được thu huấn Pháp Văn với linh mục ở TCV Piô XII Quần Ngựa, đường Hoàng Hoa Thám, Quận Hoàn Long, Hà Nội. Ngài thường kể truyện khi ngài ngồi trên Métro đi đến mỗi buổi sáng sớm dâng thành lễ ở một nhà thờ nào đó tại Paris, nhiều hành khách cứ tưởng ngài là một phụ nữ nên đã liên tục chào Bonjour Madame, dù họ có thể gặp ngài nhiều lần. Linh mục Nguyễn Văn Vinh có dáng dấp bề ngoài một người dễ thương, yểu điệu, hay faire la petite bouche. Nhưng ẩn dấu trong con người đó ngài lại bộc lộ một tính tình cương nghị sắt đá!
Kỷ niệm khác, cậu chọn ngài làm cha linh hướng. Khi còn nhỏ, cứ mỗi lần lên phòng ngài bàn việc linh hồn, thì ngài hay đùa nghịch. Có ai đó cho biết ngài giỏi vĩ cầm, nhưng câu chưa được chính ngài kéo vĩ cầm cho nghe riêng trong phòng ngài. Cậu thích nhõng nhẽo, thường chui rúc vào dưới áo soutane như con chó cún nhỏ bé dễ thương. Thế rồi khi hết giờ, trước khi ra về, ngài thường cho một hộp sữa đặc có đường mà người ta gửi biếu ngài từ bên Pháp. Mỗi lần có sữa như thế, cậu thường mang về và tối mở ra mút sữa một mình khoái trá bên trong màn.
Cha giáo âm nhạc
Ngài qui tụ một số anh em giỏi nhạc như Nguyễn Văn Hòa (GM Hòa Nha Trang), Nguyễn Văn Đồng (Đồng Bi ton, linh muc tại Cần Thơ), Nguyễn Văn Lệ (Titus Lệ, Nhạc Sĩ Nguyễn Hải Ánh), Vũ Kim Hường (Hường Khé Khò), Vũ Hùng Tôn (Tôn, cháu cha Lai, gốc Thanh Hóa) để huấn luyện và giúp ngài tập hát chung cho chủng sinh.
Ngôi nhà và thửa đất tại Ngọc Lũ, quê hương LM Vinh |
Khi Địa phận Hà Nội cho các chủng sinh di cư vào Nam, từ khoảng 14/7/1954, trong số các linh mục được chỉ định vào đi theo chủng viện, theo hiểu biết của người viết, có các Linh mục Đinh Lưu Nhân và Nguyễn Văn Vinh, nhưng cả hai vị đều xin ở lại.
Ở địa phận Hà Nội theo nhận xét của một cựu chủng sinh Hà Nội (Nguyễn Văn Lục), Tổng Giám mục Trịnh Như Khuê có cái may mắn là qui tụ được một số Linh mục trí thức như các linh mục trên. Họ đều là trí thức du học, có thể là bậc thầy của đám bốn tên sau này ở Sàigòn, mà nhiều người gọi tên là “tứ nhân bang”. Nhưng họ có lý tưởng vững chắc, đạo hạnh, can đảm, hy sinh, tuân phục mặc dầu bị bách hại. Trong số bốn vị trên, Lm Vinh chết trong tù ở trại Cổng Trời, Lm Thông 27 năm tù, hai lần lên Cổng Trời, được thả ra và chết sau đó vài năm. Lm Quynh, Oánh, đều bị quản thúc trên 20 năm.
Trường Hợp Cha Chính Vinh bị bắt giam
Trường hợp LM Nguyễn Văn Vinh bị bắt diễn ra như sau: Khoảng năm 1959, tất cả các trường theo sắc lệnh 234, các tôn giáo đều có quyền mở trường tư thục do tư nhân điều khiển.
[Sắc lệnh 234 đầu tiên về Tôn giáo do Hồ Chí Minh ký ngày 14-6-1955. Ngày 11-6-1964, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Thông tư số 60-TTg yêu cầu thi hành chính sách tôn giáo theo Sắc lệnh 234
- Điều 3: “Các nhà tu hành ngoại quốc mà Chính phủ ViệtNam Dân chủ Cộng hoà cho phép, thì được giảng đạo như các nhà tu hành Việt Nam.....”,
- Ðiều 5. “Các tôn giáo được mở trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo của mình.”
- Điều 9: “Các tôn giáo được phép mở trường tư thục. Các trường tư thục phải dạy theo chương trình giáo dục của Chính phủ. Ngoài giờ dạy theo chương trình giáo dục của Chính phủ có thể dạy thêm giáo lý cho những học sinh nào muốn học”.
- Điều 13: “Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo”,]
Nhưng nhà nước Cộng Sản chỉ thị cho tất cả các trường học, dù công hay tư, đều phải treo ảnh Hồ Chí Minh trong lớp. Trước giờ học cả lớp đều phải chảo cờ đỏ sao vàng, hát bài tiến quân ca bấy giờ được chọn làm quốc ca.
Chỉ thị của nhà nước được lệnh phải đọc công khai trong nhà trường và nhà thờ. Trung thành với tinh thần sắc lệnh tôn giáo về qui chế tư thục, Linh mục Nguyễn Văn Vinh, với tư cách là cha chính (tồng đại diện) địa phận Hà Nội, chính xứ nhà thờ lớn Hà Nội, đã không cho công bố sắc lệnh này ở nhà thờ, không tháo gỡ thánh giá và treo ảnh lãnh tụ, không chào cờ đỏ sao vàng, thay thế.
Cụ thể là ngài không áp dụng chỉ thị trên cho trường giáo xứ Nhà thờ lớn Hà nội là trường Dũng Lạc.
Lúc đó ngài còn đang được mời dậy La tinh cho các sinh viên ở Trường Đại Học Y Khoa Hà Nội. Khi Chu Ân Lai, Thủ Tướng Trung Hoa đến thăm Hà Nội, ông thấy Linh mục Nguyễn Văn Vinh còn tiếp tục được mời giảng dậy tại Đại Học. Ông liền nói với phái đoàn tháp tùng ông:
“Giờ này mà còn có linh mục được mời giảng dậy Đại Học à!”
Thế là một buổi sáng nọ linh mục Nguyễn Văn Vinh bị bắt dẫn đi, đem tống giam vào nhà Hỏa Lò Hà Nội, một nhà tù khét tiếng độc ác tại Hà Nội, vỉ bất tuân thượng lệnh! Dần dà linh mục bị dẫn giải đem giam ở nhiều trại giam, có thể ở Cầu Giát Quỳnh Lưu Nghệ An, Thanh Cầm Thanh Hóa, Đàn xanh, Ba Sao Nam Hà, Hồng Ca Yên Bái, Trại Ngọc Yên Hòa Phú Thọ, An Thịnh Tuyên Quang, Vinh Quang Vĩnh Phú, Phong Quang Lao Kay, trước khi đến Trại Tù Cổng Trời. Nhiều nhiều nhân vật khí khái đã từng bị kiên giam và biệt giam cho đến chết, mà không tự phản bội chính mình và lý tưởng của mình. Nào là thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, nhà văn Vũ Thư Hiên, Nhà văn Nguyễn Hữu Đang. Rất nhiều linh mục đã bị kiên giam và biệt giam nhiều năm trong chin tầng địa ngục Cổng Trời này.
Theo chứng từ của một người tù (Kiều Duy Vĩnh) tại Cổng Trời, thì thành phần tù nhân phần lớn là vì lý do bách hại Công giáo:
“Tôi xin nhắc lại: Tôi không theo đạo Thiên Chúa, và điều ấy có thể đã làm cho tôi sống được đến hôm nay, năm 1994. Vì những người Cộng Sản căm những người theo đạo Thiên Chúa nhất nên tất cả mũi nhọn của nền chuyên chính đều chĩa vào họ.
Thứ nhất là các đấng bậc trong Giáo Hội, rồi đến các tu sĩ cả nam lẫn nữ. (Tôi đã gặp hai bà sơ bị bắt vào xà lim). rồi đến các chánh trương, trùm trưởng, cả đến hội trống hội kèn cũng bị bắt đi tù hàng loạt.
Tôi trông họ hiền lành, ngơ ngơ nói năng chẳng rõ họ mắc tội gì mà bị hành hạ đến như vậy: Họ có mỗi một tội là tin vào Chúa Jê Su. Thế thôi.
Còn tôi, chả hiểu làm sao, tôi thiếu đức tin đó, và điều đó đã cứu tôi sống. Nói thế không có nghĩa là tất cả mọi người công giáo đi tù đều chết hết đâu. Còn chứ. còn anh Thi, anh Thọ, chị Diệp những người trong vụ nổi loạn ở Ba Làng Thanh Hóa năm 1954, còn Nguyễn Công "Cửa" tức Môn, ngư dân vượt biển, còn Nguyễn Hữu Bổn người thôn Vạn Lộc Nam Lộc Nam Đàn...
Tôi có nghe nói lại là khi đọc lệnh tha anh Thi, anh không chịu ra khỏi tù, họ phải lôi anh ra, anh mới chịu ra.
Ngay cả giáo dân họ cũng kiên cường như vậy, thảo nào mà những người Cộng Sản đặt họ lại hàng đầu để tàn sát họ, tiêu diệt họ.
Cho đến hôm nay năm 1994, tôi vẫn mong mỏi gặp lại vài người còn sót lại trong số 72 người đầu tiên lên Cổng Trời mà vẫn chưa gặp lại ai, ngoài 1 người Cộng Sản là anh Nguyễn Hữu Đang.”
Một Hình Ảnh Về Trại Cổng Trời, Nơi Linh Mục Nguyễn Văn Vinh Bỏ Xác Lìa Đời
Có nhiều người tù còn sống ghi chép lại trại tù này. Trong “Đêm Giữa Ban Ngày", Vũ Thư Hiên hồi ức về Trại Cổng Trời như sau.
Cổng Trời là một trại giam ở xa tít mù tắp mãi tận Hà Giang, bên kia Mù Cang Chải, giáp giới Trung Quốc. Cổng Trời đi vào huyền thoại, là nỗi kinh hoàng của người tù. Những ai đã từng sống ở Cổng Trời thậm chí không muốn kể về nó, không phải vì sợ bị công an trừng phạt (nghiêm cấm nói đến bí mật của các trại), mà còn vì sợ người nghe nghĩ mình bịa đặt.
Hình như Tôn Thất Tần đã ở cái trại kinh khủng đó, nhưng ông ngậm tăm. Những người tù nói rằng ai đã lên Cổng Trời mà còn về được coi như sống lần thứ hai....Chế độ giam giữ ở đây rất khe khắt. Hơi một tí là bị”khóa cánh tiên”, bị “hạ huyệ”, còn nếu bị “cùm hộp” thì coi như đời đi tong.
Vũ Thư Hiên đã mô tả ba lối hành hạ “Khóa cánh tiên, Hạ huyệt và Cùm hộp” trong cuốn hồi ký của ông, mà thú nhận chỉ mới được thấy cảnh người bị "khóa cánh tiên" (có người chỉ chịu được vài phút là ngất xỉu, có người chịu được hàng giờ như thi sĩ Nguyễn Chí Thiện,) còn hai lối giết người kinh khủng kia ông chưa được thấy chỉ nghe kể lại.
Một nhân chứng ở trại Cổng Trời cho biết là Linh mục Nguyễn Văn Vinh qua đời vào khoảng năm 1970. Tù nhân trong trại được lệnh đem xác cha đào hố chôn ở một khoảnh rừng gần đó. Về sau, người làng Ngọc Lũ đã tìm cách đào nấm mồ chôn xác ngài. Người ta thu lượm được một phần mùn di cốt và mảnh y phục mà ngài mang khi qua đời, rồi đem về, bảo quản, tôn sùng tại Nhà Thờ Ngọc Lũ, chung với số phận các tiền nhân tử đạo Việt Nam, như đã nói
Một Hình ảnh Khác Về Trại Tù Cổng Trời, Qua Ngói Bút Của Một Số Cựu Tù Nhân Sống Sót Ghi Chép Lai.
Tổ chức ở Nhà Tù Cổng Trời ở miền Bắc Việt Nam, nơi giam giữ cha Nguyễn Văn Vinh, nhiều cha khác và nhiều thành phần khẳng khái bị khép vào tội lật đổ hay âm mưu lật đồ chế độ. Hầu hết tù nhân là những chính trị phạm ngoan cường, những linh mục tu sĩ hay chỉ duy nhất một lần một người tù hình sự cho anh em biết là ở đó có hầm đá, quan tài đá và chôn một người chết ở đó được thỉ thêm một cân lòng trâu. Thế thôi. Không còn biết gì hơn nữa.
Nhưng Khu A, Khu B, Khu C thì có tù nhân biết rõ vì đã lần lượt bị giam ở ở cả ba khu này.
Khu A thì (tính đến 1967) chết gần hết chỉ còn tù nhân Kiều Duy Vịnh và Trần Huy Liệu người Cầu Giát, Quỳnh Lưu. Khu B thì chết ít hơn, Khu C thì phần lớn còn sống trở về.
Đấy là chỉ tính từ thập kỷ 70 trở về sau. Còn 72 người tù đầu tiên lên trại Cổng Trời năm 1960 thì vào khoảng năm 1997, tù nhân họ Kiều chỉ còn gặp lại một mình Nguyễ¬n Hữu Đang, người bị kết án là cầm đầu Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm mà thôi. Như thế là trong số 70 người tù kia chẳng còn ai cả.
Coi sóc cả ba khu là một Phó Giám Thị, tù nhân họ Kiều không còn nhớ tên, chỉ nhớ tên đó là xuất thân ở Đức Thọ, Hà Tĩnh cùng quê với cố Hoàng (có hai con trai sinh đôi là Song, Toàn).
Người ta thấy Phó Giám thị như một Quỷ Sứ Đen Đủi hiện hình, lác bạch như mắt này chửi mắt kia, mồm méo sệch. Vì thân tàn ma rại như thế mà bọn Công Sản mới dùng vào việc này bất nhân này. Lúc nào hắn cũng lừ đừ, lầm lủi như ma hiện hình, chợt đến, chợt đi, như muốn rình mò chộp giựt một cái gì đó. Hắn nhìn ai cũng thể như trợn trừng như muốn ăn sống nuốt tươi người ta. Cố Hoàng bảo: "Tôi biết hắn lắm mà. Hắn giết nhiều người lắm đó." Tuy đồng hương, nhưng hắn không hé răng với cố Hoàng bao giờ cả.
Một Mẩu Sinh Hoạt Trong Nhà Lao: “Nhất Nhật Tại Tù, Thiên Thu Tại Ngoại”
Quỷ mắt lác chợt đến, đâm xông vào buồng, sộc vào tận ngóc ngách nhìn soi mói, sờ nắn nếu có gì nghi ngờ, có thể chui ngay xuống gầm sàn nằm, để móc ra một cái gì đó.
Có một lần khi mới lên, tù nhân Trần Huy Liệu thấy hắn vào buồng bèn thắc mắc:
"... Thưa ông."
"Gì?"
"Ăn uống ở đây kém quá, ông cho biết tiêu chuẩn của chúng tôi được như thế nào?"
"Cái gì. Tiêu chuẩn à. Các anh không có tiêu chuẩn gì hết. Cho thế nào ăn thế."
Xong,Phó Giám Thị đi tiếp. Đến lượt Chánh Giám Thị Vũ Đình Nhân nói về số phận của tù nhân. Thế là mọi sự đều đã rõ rang, các tù nhân đành cam chịu.
Mỗi Khu có chế độ đối xử riêng:
Khu A: Hưởng đồng loạt: 12 Kg sắn cộng gạo một tháng, được ngồi chơi trong buồng giam không phải làm gì cả. Cứ ở trong kiên giam suốt ngày đêm. Không được viết thư, không được nhận thư, không sách, không báo, không một mẩu giấy, không một cái bút.
Khu B: Ăn 13 kg 5 đến 15 Kg sắn cộng gạo một tháng. Được ra ngoài hè nhà đan lát, chẻ tăm làm việc vặt. Sáu tháng được viết thư một lần và được nhận thư.
Khu C: Ăn 15 Kg đến 18 Kg sắn cộng gạo một tháng. Được lao động ở sân trại: đánh đá xây trại, xây nhà, thợ mộc thợ nề biết gì làm nấy. Ba tháng viết thư một lần. Được mua thêm sắn, khoai, rong diềng, thịt trâu ăn thêm. Được coi là những tù nhân có phần nào đã chịu cải tạo. Được đối xử khá hơn Khu A và Khu B, tuy vẫn ở trong bốn tường rào và vẫn chịu sự kiểm soát ngặt nghèo.
Nhưng tất cả đều không được gặp người nhà và không được nhận tiếp tế, thăm nuôi.
Theo tù nhân họ Kiều đã nói ở trên: Khu C có một lần được mua sắn về luộc ăn. Say sắn chết mất năm người.
Đầu năm 1965 thì tù nhân họ Kiều được sang Khu C và đến năm 1965 thì anh được về suôi tại Phú Sơn 4, Thái Nguyên.
Ngày Tết Nhâm Dần 1961 tại Cổng Trời
Với cái Tết đầu tiên ở Cổng Trời năm Nhâm Dần 1961, anh được hưởng một cái Tết đặc biệt nhất trong đời anh.
Tết ở Các Trại Dưới.
(Trại Ngọc, Yên Bái; trại Da Thịnh, Tuyên Quang; Phong Quang, Lao Kay; Tân Lập, Phú Thọ; Tân Sơn, Lạng Sơn; và Vĩnh Quang, Vĩnh Phúc... )
Cứ lúc đói là anh Trần Huy Liệu nói chuyện với tù nhân họ Kiều về Cầu Giát Quỳnh Lưu Nghệ An, quê anh về thịt trâu, thịt bò, thịt me (bê), thịt lợn, thịt nghé rồi cá chim, cá thu, cá ngừ, cá dưa, cá cơm, cá cháo. Đời tù vui đáo để là thế mà cũng buồn đến não lòng.
Đầu óc anh thật đơn giản nhưng vô cùng tốt lành. Có lần đứng ở cửa sổ nhìn ra sân trại, anh quay lại bảo với tù họ Kiều: "Chiều nay ăn 'chốc tru'."
Tù họ Kiều ngớ người ra không hiểu, anh nhắc lại: "Chốc" là đầu, "tru" là trâu: đầu trâu.
Anh rất méo mó nghề nghiệp, giảng cho tù họ Kiều biết: "Đừng tưởng 'chốc tru' là toàn xương đâu. Khối thịt ra đấy. Bỏ sừng đi. Còn lại hai phần ba là thịt đấy."
Tù họ Kiều bảo: "Hai phần ba là xương thì có."
Anh cãi: "Cậu đếch biết gì, này lưỡi này tai, này mồm này má, này óc; xương không bao nhiêu đâu."
Và anh nói đúng sự thật, vừ nói xong vừa nuốt nước bọt làm tù họ Kiều thèm lây.
Những tháng rét, các tù nhân ăn sắn độn cơm và ăn lá bắp cải già nấu muối. Tiếu chuẩn nói là 12 kg sắn gạo, nhưng có lẽ chỉ còn độ 9, 10 kg thôi. Tù nhân đi lĩnh gạo ở mậu dịch về làm gì có cân đủ. Về để ở kho, lũ chuột bọ lại xơi hao hụt đi. Ban quản lý trại phân phát cho nhà bếp còn độ 10 kg. Nhà bếp còn giữ lại cháy để nuôi lợn nữa.
Lá bắp cải già đen, nấu trong chảo, hòa thêm muối khiến nước đen sì có vị nồng. Người ngoài trông không dám ăn, nhưng tù nhân ăn ngon lắm. Tù nhân ước mong nhà bếp cho đủ mặn thì tốt quá. Nhưng muối ăn cũng bị hạn chế. Tù nhân thường đổ thêm nước vào canh để cho đồ ăn có vẻ được nhiều hơn.
Và ai húp hết canh rồi, thì mới ăn đến cơm. Những lúc đó tù nhân họ Kiều cứ nghĩ lẩn thẩn, tại sao ở ngoài đời lại phải ăn cơm với thức ăn! Cơm không cũng đã ngon lắm, thế thì cần gì phải có thêm thức ăn nữa.
Cơm ăn nhà bếp đem lên nhà tù rất ít khi còn nóng. Từ nhà bếp lên đến buồng giam, thường người mang cơm phải mất thời gian khoảng hai tiếng đồng hồ. Cơm để trong chảo, rồi xúc ra đổ ra thùng. Sau đó,còn phải cân lại. Cân xong, gánh để ở sân trại. Hôm nào mưa thì để ở hè. Hôm trời rét, cơm canh nguội rất nhanh. Quản Giáo trực lúc đó mới mở cửa từng khu mộ, cho tù nhân ra lấy cơm theo thứ tự.
Khu C trước, rồi Khu B, rồi sau cùng mới đến Khu A. Đến lượt tới Khu A, thì cơm đã nguội ngắt. Đem vào buồng lại phải dằm nát ra để chia đều, cho công bằng. Chia bằng cân tiểu ly tự tạo từng xuất một. Thế là nguội lạnh hết cả. Ăn cơm xong coi như không ăn. Vì ăn vào lại thấy rét thêm. Dường như cơ thể phải tỏa ra năng lượng để hâm nóng cơm canh cho cân bằng với thân nhiệt.
Tù nhân thường phải khoác chăn vào mà ăn, nhưng ăn xong vẫn thấy rét. Đói và rét thường song hành với nhau. Người xưa thường nói: “Cơ hàn thiết thân” là thế. Trong những lúc đói rét đó, tù nhân rất mong Tết đến.
Dù sao chăng nữa, Tết trong các trại tù dưới, bao giờ cũng có bánh chưng. Có khi nhà bếp còn phân phát cả kẹo bánh nữa. Tuy chẳng là bao, nhưng cũng gọi là có thêm. Cũng như bao nhiêu người, mà tù nhân họ Kiều cũng mong Tết đến lắm. Anh thấy thòm thèm một viên kẹo bột dỗ trẻ, như lúc còn thơ ấu.
Tết đến may ra các tù nhân được một bữa no, lại có thêm tí đường. Những ngày lễ Lao Động 1-5, Quốc Khánh 2-9, tù nhân có được ăn thịt trâu, bò, hoặc lợn. Tù hình sự gọi thịt là "mều." Phần ăn có dăm ba miếng thịt, lại thêm mấy miếng lòng, thế là đời tươi rồi.
Tưởng tượng đến những ngày ấy, anh thấy bụng mình đã hơi lưng lửng. Mỗi lần đến Tết, nguyên bữa ăn có cơm, canh, thịt và miếng bánh chưng là anh thấy gần no rồi.
Anh thường luôn nghĩ đến câu:
"Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết."
Anh dồn cả bánh chưng phát chiều 30 Tết, và tất cả kẹo bánh dành cho sáng mồng một. Ăn vội hết cơm canh thịt xong, anh mới bóc xơi cái bánh chưng. Rồi ngoạm hết cái bánh chưng, anh mới tráng miệng nốt chỗ kẹo bánh, liền một lượt. Anh vươn vai đứng dậy, kể như là hết Tết.
Ở các trại dưới, chỉ có hai ngày Tết, chứ không có ba. Vì sáng mồng ba Tết, các tù nhân đã phải đi làm rồi. Đúng là lao động là vinh quang, tay làm hàm nhai, vì “nhàn cư vi bất thiện”.Trong tù, Tết bắt đầu từ chiều 30. Bữa ăn chiều 30 Tết bao giờ cũng có món lòng trâu, lòng lợn, thêm tí thịt thủ, tý mỡ vào canh lá bắp cải già. Vì buồi sáng 30 Tết, trại bận làm thịt lợn, thịt trâu cho Ban Giám Thị, Ban Chỉ Huy bộ đội kịp gói bánh chưng.
Bữa sáng mồng một Tết, tù nhân được ăn thịt hẳn hoi. Chiều lại ăn cơm rau như thường. Sáng ngày mồng hai,tù nhân còn được ăn một bữa thịt nữa. Chiều mồng hai lại ăn rau có thêm nước luộc thịt. Thế là thường tù nhân nào ăn xong, vẫn thấy còn đói.
Tết ở Cổng Trời Năm Nhâm Dần 1961...
Ở Cổng Trời, khií hậu một năm có hai mùa: Mùa nóng bắt đầu từ đầu tháng Năm; mùa rét từ đầu tháng Chín. Thường mùa nóng ngắn hơn hơn mùa rét. Gọi là nóng, nhưng đêm vẫn phải đắp chăn, vì khí lạnh từ núi đá và tường đất tỏa ra.
Tù nhân Nguyễ¬n Hữu Đang sáu tháng tắm một lần. Anh bảo: "Có ai chết vì không tắm đâu. Cậu xem đấy những anh nghiện thuốc phiện cả đời có tắm bao giờ đâu, chả sao hết."
Anh Đang nói chắc nịch, đúng như đinh đóng cột. Những lúc đói rét, cơ hàn thiết thân, tù nhân mới thấm câu: “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Đã đói, làm sao mà sạch được! Thấy đói rét, chỉ mới nhúng tay vào nước, ai cũng còn ngại, còn nói gì đến tắm. Đã rách rưới, mà còn muốn thơm. thật là oái ăm, người xưa thật quá khe khắt với thế hệ con cháu.
Tù nhân họ Kiều nửa tháng không dám rửa chân. Vì nếu rửa chân thì cái lạnh cứ dai dẳng bám lấy đôi bàn chân, dường như mấy ngày không ấm lại được. Cả ngày đêm, lúc nào, tù nhân cũng ngồi co ro trên sàn gỗ, có đi đến đâu mà bẩn, phải rửa! Thậm chí, Trần Huy Liệu cả thàng trời không đánh răng rửa mặt. Mắt anh ta đầy dữ, và mồm vêu ra đầy bựa, thật hôi hám.
Chiều 30 Tết hôm ấy,trời rét cắt da, cắt ruột, cắt thịt. Bầu trời ảm đạm xám xịt, chăng đầy mây. Trại tù im ắng như chết. Tù nhân họ Kiều đứng ở cửa sổ, nhìn qua song gỗ lim, thấy Nguyễ¬n Hữu Đang đứng ở sân trại nói với Phó Giám thị trại Quỷ Sứ người Đức Thọ, Hà Tĩnh.
Anh lắng nghe lõm bõm:
"Thưa ông, theo tục lệ cổ truyền của Việt Nam thì đến chiều 30 Tết, gia đình nào cũng làm mâm cơm cúng gia tiê, và ở các trại dưới tù cũng đều được cải thiện ăn thêm... Mong rằng ông cũng cho anh em chúng tôi..."
Nhưng có tiếng quát cao giọng ngắt lời Nguyễn Hữu Đang.
"Không có gì cho các anh cả. Biết chưa. Cấm không được đòi hỏi, yêu sách lôi thôi gì... Cho thế nào ăn thế..."
Rồi Quỷ Sứ quay ngoắt ra cổng trại. Chiều 30 Tết năm ấy vẫn lá bắp cải già nấu muối đen sì. Không hơn, không kém, mà vẫn như mọi ngày khác!.
Tết Trong Tù Vẫn có thơ
Thơ gắn liền với bàn tính người Việt Nam. Ở trong tù, thơ là một thú tiêu khiển của những người tù.
Hai ngày Tết trôi qua. Đến sáng ngày mồng ba, Cố Hoàng, một tù nhân có nhiều thâm niên, làm một bài thơ vịnh cái Tết đó, rồi đọc cho tù nhân nghe.
Thơ rằng:
Tết đến Nhâm Dần khốn nạn thay
Chiều 30 Tết vẫn ăn chay
Bánh chưng mong đợi thời không có
Thịt lợn vừa tròn ba đốt tay
Buổi sáng mỗi người hai cái kẹo
Bữa trưa dăm miếng thịt trâu gầy
Anh em ngao ngán nhìn cơm sắn
Khốn nạn thân tôi đến thế này...
Anh vốn ghét những người làm thơ không hay. Thế nhưng, những người làm thơ không hay, lại rất hay làm thơ. Và đã làm thơ thì thế nào cũng níu kéo chia sẻ với một người nào đó để đọc cho nghe. Anh khổ sở vì phải nghe những bài thơ đó. Hồi nhỏ, anh thấy thầy anh ngồi cùng các vị túc nho hay chữ, lúc trà dư tửu hậu có người lên tiếng đùa cợt nói:
"Ai mà nói dối, thì ăn câu đối cụ Nghè Bản"
Mọi người cười ầm lên.
Anh không rõ cụ Nghè Bản là ai và ở đâu. Nhưng suy ra chắc là câu đối của cụ thối lắm nên mới có câu nói cửa miệng đó.
Nó cũng như câu nói của Trạng thơ Cao Bá Quát:
"Câu thơ thi xã, con thuyền Nghệ An."
Đến giờ đây, ở đâu ai cũng làm thơ, thơ hay đến không ngửi được cũng đăng báo, xuất bản thành tập làm khổ người xem, người đọc.
Hình như ở đất nước này, ai ai cũng thích làm thơ. Ngay anh, một người Việt Nam chân chính, anh cũng mắc cái tật ưa làm thơ như ai. Nhưng vì anh là con nhà binh, nên làm thơ chỉ đạt đến trình độ của mấy ông quan võ ngày xưa mà thôi. Nghĩa là:
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đấy
Hoặc:
Chẳng phải voi cũng chẳng phải trâu
Ấy là con chó cắn gâu gâu
Rồi anh đọc cho cố Hoàng nghe. Cố sổ toẹt toàn bộ thơ của anh, bảo chẳng ra làm sao cả. Cố nói chỉ có mỗi một câu nghe được là câu:
Ngũ Tử Tư, Ngũ Tử Tư,
Tấm thân chìm nổi đến bao giờ
Cố Hoàng rất hay làm thơ và cũng ngâm lại cho anh nghe. Giọng cố ngâm rất hay, cố lấy làm thích thú lắm. Ra cái điều tâm đắc. Nhưng cố hát còn hay hơn nữa. Cố hay hát lại bài ca tụng các Thánh tử vì đạo của Cha Vinh (địa phận Hà Nội).
Nếu không có mẹ, ở nơi lưu đày...
Xin Mẹ hãy nghe lời con kêu van, khấn cầu đau đớn
và...
Dù gươm chém hay đầu rơi
Lòng vàng đá không hề phai...
Làm cho tù nhân họ Kiều thuộc đến tận bây giờ.
Và cũng như bài thơ Tết Nhâm Dần ở trên, cố cứ ngâm nga mãi, tuy rằng bài thơ không hay, nhưng nó lột tả được toàn bộ sự thật đau xót khốn khổ của cái Tết tù năm đó. Vì không có bài thứ hai, nên anh mạn phép chép lại, các vị cũng lượng thứ cho. Vì cái Tết của tù nhân đúng như vậy đó. Chỉ được ăn một bữa, bữa trưa ngày mồng một Tết thôi. Mà đói vàng mắt ra, vì mãi đến tận một giờ chiều mới được ăn.
Mọi ngày tù nhân ăn khoảng từ 8 đến 9 giờ sáng. Riêng ngày mồng một Tết, các quan còn bận ăn Tết nên không xuống mở cửa sớm. Mãi đến 10 giờ sáng mới xông đất mở cửa nhà bếp. Thế có nghĩa là ba tiếng đồng hồ sau, một giờ chiều tù nhân mới được ăn cơm sáng.
Mười giờ sáng, mở cửa, phát cho mỗi người hai cái kẹo. Lại đóng ngay cửa lại. Sau khi tù khênh cứt đái ra ngoài đổ, tù nhân lại vào buồng ngồi chờ cơm. Trong khi chờ đợi, thì thưởng thức hai cái kẹo ăn dỗ trẻ con. Cả lũ tù phải nhịn đói đến một giờ chiều. Đúng như lời trong thơ tả:
Bữa trưa dăm miếng thịt trâu gầy
Và ba miếng thịt lớn bằng ba đốt ngón tay, và, của đáng tội, còn được thêm mấy miếng lòng nữa mà cố Hoàng không chép nhét vào trong bài Thơ Đường đó được.
Bài thơ không được hoàn chỉnh lắm và có thể thất niêm thất luật. Nhưng nó đúng, đúng với sự thật đau xót. Tết vẫn ăn cơm độn sắn, đắng ngắt. Nhưng cái kết không có hậu. Khốn nạn thân anh đến thế này thì thật là mệt quá.
Riêng anh, anh vẫn muốn có một happy end, vẫn muốn có Tiên Điền Nguyễn Du vớt nàng Kiều ở sông Tiền đường lên cho tái hồi Kim Trọng, anh vẫn muốn sống và trở về tự do, về nhà cùng mẹ và vợ con anh, nên anh mạn phép cố Hoàng cho anh sửa lại câu cuối. Cố bảo thì sửa đi. Anh sửa thành:
"Ước đến sang năm khác thế này."
Cố gật đầu bảo: "Thôi cũng được."
Thế là bài thơ đó như sau:
Tết đến Nhâm Dần khốn nạn thay
Chiều ba mươi Tết vẫn ăn chay
Bánh chưng mong đợi thời không có
Thịt lợn vừa tròn ba đốt tay
Buổi sáng mỗi người hai cái kẹo
Bữa trưa dăm miếng thịt trâu gầy
Anh em ngao ngán nhìn cơm sắn
Ước đến sang năm khác thế này.
Có thể là vì câu thơ cuối, mà cố Hoàng thì nằm lì chôn thân nơi đó, còn tù nhân họ Kiều may mắn trở về để viết lại câu chuyện này hôm nay.
Bài Anh Hùng Ca Tử Đạo Của Nhiều Tù Nhân Tín Hữu
Khung cảnh một trại tù Cổng Trời như thế đã là nơi sinh sống muôn thuở của nhưng tù nhân như Linh mục Nguyễn Văn Vinh. Dúng là Cổng Trời là nơi đã đón tiếp biết bao anh hàng liệt sĩ Công giáo về cõi Vinh Phúc. Không có đau khổ vì đức tin kiêu hùng trung kiên, người tín hữu không thể vào chốn vinh quang muôn đới.
Cùng với nhiều tù nhân chia sẻ cùng số phận, nhiều tù nhân, cùng đức tin cũng như ngoài đức tin Công giáo, kể cả kẻ đã bách hại ngài, đã cùng nghe Ca Đoàn tù nhân đau khổ luôn reo ca bài hát Vết Tử Hùng’ của Văn Thi và Tâm Bảo vì đức tin Kitô. Linh mục, tu sĩ, trùm trưởng,… đã anh hùng bất khuất bạo lực, noi gương các thánh tử đạo, noi gương đức Kitô trên đường Thánh Giá
Bài hát đó trở thành bài thánh ca nuôi dưỡng lòng trong kiên, chuẩn bị đưa Linh Mục Nguyễn Văn Vình cùng với bao con người đau khổ nhưng anh hung, vào Nước Trời Vĩnh Cữu. Xứng đáng thay, một linh mục tử đạo kiêu hùng giữa Ca Đoàn Tù Nhân Tử Đạo, hát vang tiếng ca Vết Tử Hùng:
Điệp khúc:
Kìa Ai còn lưu tiếng Thiên Thu
Cương quyết vì Đạo Chúa hiến thân
Lời ai hòa trong gió âm u
Máu ai còn tiếng vang xa gần
Dù Kiếm Sắc Cần chi
Dù gong mang xá gì
Treo gương cho khắp thế soi chung
Trong đau thương chí khí anh hung
Lòng vàng đá không hề chi
Rầy cùng Chúa được vinh phúc trên Cõi Trời
Câu riêng
1. Càng nung nấu nhiều, vàng thêm trong thêm sang tươi.
Gươm giáo kia ai hay chứng lòng sắt son.
Càng đau đớn nhiều càng thêm hoa trên đường mới
Dắt lên chốn Trời cao còn hạnh phúc nào hơn
2. Đời bao tháng ngày lòng cao siêu không vướng chi.
Sung sướng như mây bay dóng đới tối tăm.
Tìm nơi phúc thật hiền nhân xưa kia bền chí
Bước cay đắng trần gian: đường vinh phúc ngàn năm
3. Lòng tin Chúa Trời tình thân yêu khăng khít liên.
Trong gió mưa tân toan vững niềm kính tin
Còn thêm suối lành đoàn hậu sinh nay tìm đến
Dám dâng các tiến nhân lời tha thiết cầu xin
Cậu chủng sinh họ Đỗ đã bao lần nức lòng khi đồng ca bài hùng ca bất diệt đó với các bạn hữu, củng cố thêm niềm tin sắt son vào Ơn Trên giữa những cơn đau khổ triền miên trong dòng đời, phương chi người đó là Kitô hữu. “Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong vinh quang!”
Một Kết Luận: Chuyện Hậu Sự Của Người Dương Thế
Đức Cha Oanh giám mục Kontum dâng thánh lễ tại Ngọc Lũ |
Hồi 4h30 sáng 13.10.2007 Thánh Lễ đồng tế do Hoàng Đức Oanh Giám Mục Kontum, và linh mục thư ký cử hành tại nhà thờ Ngọc Lũ
Di cốt Cha Chính Vinh tại Nhà Thờ Ngọc Lũ, Nam Định |
Hồi 4h30 sáng 13.10.2007 Thánh Lễ đồng tế do Giám Mục Kontum, và linh mục thư ký cử hành tại nhà thờ Ngọc Lũ để cầu nguyện cho cha chính Vinh và các người đã qua đời của Giáo Xứ Ngọc Lũ. Sau Thánh Lễ Giám Mục đến thăm mảnh đất hơn 07 sào, xưa là nhà của ông bà thân sinh cha chính, năm 1993 đã được bán lại cho một gia đình khác (cũng là người công giáo).
Giám Mục Nghĩa Tử Chủ Tế và người thu hồi di cốt cha Vinh |
Hãy cầu nguyện và tha thứ cho những kẻ lầm chẳng biết, dù chúng cố ý hành hạ làm khốn người vô tội nhưng một lòng son sắt với đức tin Kitô giáo.
Xin Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Phù Hộ Cho Đoàn Con Đất Việt!
Một Số Tài Liệu Tham Khảo
Tư liệu đặc biệt:
Huynh Hà, Đặc San Huynh Hà. Viết Về Địa Phận Hà Nội. Sàigòn, 2/7/1971, 100t., 21x32cm
Huynh Hà, Kỷ Yếu Huynh Hà. Uống Nước Nhớ Nguồn. HCM, 1996, 224t, 14x21cm.
Huynh Há, Kỷ Yếu Huynh Hà.Tìm Về Cội Nguồn. HCM, 1997. 446t +74t (phụ), 14.5x21cm, nhất là các trang 300-301. Ngân Khánh 7 LM gốc TGP Hà Nội, trong đó có LM Hoàng Đức Oanh.
Bạn Đường, Kỷ Niệm Ba Mươi Năm Bạn Đường (1960-90). Kỷ Niệm Hai Mươi Lăm Năm Giám Mục của GM. Nguyễn Văn Hòa (58 năm Bạn Đường sống bên nhau. HCM, 29.04.2000, 362t, A4, font 14
Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Tổng Giáo Phận Philadelphia. Đặc San Kỷ niệm 25 năm (1975-2000). [Tám Cộng Đoàn].Hoa Kỳ, 19/11/2000 Tông Đồ Mục Vụ Việt Nam (1719 Morris St., Philadelphia, PA. 19145. Tel: 215-755-8369), 184tt., 15x25cm
Huynh Hà, Về Nguồn Huynh Hà. HCM, 4/8/2002, 58t., 14x21cm.
Mậu Hải Chúa Gọi. Hồi Ký. Kỷ niệm 50 năm linh mục và thương thọ bát tuần LM Inhaxiô Mai Xuân Hậu 30/5/2003. Không đề nơi ấn hành, vi tính, 97 trang,15x25cm
Bạn Đường, Kỷ Yếu Kim Khánh Bạn Đường (Giáo Phận Hà Nội), 1953-2003. Sài Gòn, 2004, 329t., A4, in rônêô, font 14. Kỷ Niệm I. Viết về Tràng Tập Hà Nội, II. Hoàng Nguyên Phú Xuyên Hà Đông, III. Piô XII Hà Nội. IV.Thăm Miền Tây II. V.Xây Dựng Nhà Thờ Trung Hải. VI. Sinh hoạt Bạn Đường
Hội Ái Hữu Địa Phận Hà Nội: Kỷ Yếu Hà Nội 2004. Mười Lăm Năm Thành Lập Hội Ái Hữu Địa Phận Hà Nội Nam California (1988-2003). USA, NV printing (7775 Westminster Ave., Wesminster, CA 92683), 340tr, A5.
Hồng Nhuệ (Nguyễn Khắc Xuyên), Lược Sử Địa Phận Hà Nội, 1626-1954. Lời tựa, ghi ở Paris ngày 2/9/1994. Lưu hành nội bộ, 576t, 20x29cm + 168t. Ảnh và tư liệu. Nha Trang, 4/3/1999. xviii-628t., 20x29cm
Bùi Đức Sinh: Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.
Quyển I.-(1430-1833). USA, CA [Profess Printing Inc., San Jose, California], 2001, in lần 3, 513t, 15x25cm
Quyển II. – (1820-1911). USA, CA, in lần 3, 2001, 619t, 15x25cm.
Quyển III. – (1900-1975). USA, CA, in lần 3, 2001, 550t, 15x25cm
Nhiều tác giả. Ba Mươi Năm Công Giáo Việt Nam Dưới Chế Độ Cộng Sản 1975-2005. 8.2005, NS Diễn Dàn Giáo Dân & Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại Cơ Sở Dức Quốc, Mỹ và Âu Châu ấn hành, 649t, 16x27cm
Văn Phòng TTK HĐGMVN Giáo Hội CGVN: Niên Giám 2004 (Năm Thánh Truyền Giáo). Nhà XB Tôn Giáo (Nhà In Trần Phú, I HCM), Hà Nội, 2004, 960t, 15x21.5
Văn Phòng TTK H ĐGMVN Giáo Hội Công Giáo Việt Nam: Niên Giám 2005. NXB Tôn Giáo, In lần II, Nhà In Trần Phú, 71-75 Hai Bà Trưng, Quận I, Tp HCM), Hà Nội 2005, 965 trang.
Một Số Websites, Emails Khác:
- Notice biographique du missionnaire Dépaulis au Tonkin, http://archivesmep.mepasie.org/recherche/notices.php?numero=2576&nom=
- Notice nécrologique du missionnaire Dépaulis au Tonkin, http://archivesmep.mepasie.org/recherche/notices_necro.php?numero=2576&nom=DEPAULIS
Toàn Văn Sắc Lệnh 234 về tôn giáo tại nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 14/6/1955 do Hồ Chí Minh ký và ban hành
http://vbqppl.moj.gov.vn/law/vi/1951_to_1960/1955/195506/195506140001/view
- Tran Minh Tien trantien@hcm.vnn.vn; Tài liệu 7:29 am (39 minutes ago to"GM. Tran Xuan Tieu"
- Trong số bốn vị trên, Lm Vịnh chết trong tù ở trại Cổng Trời, Lm Thông 27 năm tù,... .. 11. Bá cáo của Nguyễn Đình Đầu viết về Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình. www.vnfa.com/anews/0710_093.html - 61k - Cached - Similar pages - Note this
- Hãy nhìn mấy cha thầy ẩn tu ở Thiên An mới bị tịch thâu trên 100 mẫu đất... Lạng quạng là có chầu đi nghỉ mát ở trại Cổng Trời như cha Nguyễn Hữu Lễ ngay.... www.longtien.org/httpdocs/cxphuchung/files/chauvehpho.html - 15k - Cached - Similar pages - Note this
- Tử tù Cổng Trời, bị cởi bị trồng (Cởi Trồng = Cổng Trời)... . Và cũng lắm lúc chính cha ông chúng nó đã bị đàn anh Trung Cộng hống hách, bắt nạt,...
www.ausviet.net/readessay.asp?Title=forum/nnguyen/20080125100004.txt - 45k - Cached - Similar pages - Note this
- Việt Thường: Ghi nhớ về lễ noel hà-nội. ĐOÀN TỤ...
NĂM 1954... ĐỂ CHIA LY HƠN. TỪ ĐẤU TỐ... ĐẾN VU CÁO NHỮNG NGƯỜI MỘ ĐẠO. VẾT DẦU LOANG. MÁU TƯỚI VÙNG CAO. NƯỚC MẮT VÙNG THẤP. NÔ-EN 69 VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO.
Chính là từ cái năm 1968 này, các nhà thờ tự nhiên buổi lễ có đông con chiên. Họ đến để cầu nguyện cho con, em, chồng, cha...đã bị "sinh Bắc, tử Nam "....
www.vietthuongonline.com/mainarticles/ghinholenoelhanoi.htm - 66k - Cached - Similar pages - Note this
- Nguyễn Văn Lục: (NVL) Thưa anh Nguyễn Chí Thiện, xin nói thật,... . Tôi có bị giam ở trại tù Phong Quang, Lào cay và tôi đã gặp Vũ Thư Hiên trong vòng ba... phanthanh.multiply.com/reviews/item/74 - 44k - Cached - Similar pages - Note this
- Dữ nhất, theo họ, vẫn là Cổng Trời mà tôi đã nói tới ở trên.... .. Nhìn cảnh những Kiều Duy Vĩnh, Nguyễn Chí Thiện, Lê Trình, Văn Thợ Mộc, Tôn Thất Tần......
www.quocuy.com/forum/viewtopic.php?p=1903&sid=abeefb011df6615e9685ccfd08b48b45 - 70k - Cached - Similar pages - Note this
- Sợ lộ sẽ bị bắt tù, chỉ vì ông mắc tội yêu nước, dám chống đối nhà cầm quyền thực... . Hai cha con về đến nhà trời đã xế trưa, bà Biểu Cô, chị họ ông Woòng,...
vietbay.com/docs/haingoai_truyen1/nguyenthi_vinh1.html - 24k - Cached - Similar pages - Note this
- Ông "Cổng trời"
Lao Động số 83 Ngày 12/04/2007 Cập nhật: 9:37 PM, 11/04/2007. (LĐ) - Dân bản gọi già làng Và Phái Tểnh là ông "cổng trời" không chỉ bởi cái bản của ông "mọc" trên chót vót eo rừng quanh năm mù sương. Ông "cổng trời" còn có nghĩa - người đã mở ra một "cổng trời mới" biến "thủ phủ" ma tuý Mường Lống, một địa bàn di dịch cư phức tạp thành điểm sáng của huyện biên giới Kỳ Sơn (Nghệ An).
Bản ta ngày xưa là thung lũng ma tuý"
- (LĐ) - Dân bản gọi già làng Và Phái Tểnh là ông "cổng trời" không chỉ bởi cái... Còn khoảng thời gian từ 1975 về trước, ông là giáo viên dạy chữ Mông ở Tây...
www.laodong.com.vn/Home/phongsu/2007/4/31668.laodon - 56k - Cached - Similar pages - Note this
- Một thời gian ngắn trước khi cha Nguyễn Văn Lý bị bắt, VC đã tung ra rất nhiều... . trại giam ở miền Bắc. Trại Thanh Cẩm và nhất là trại Cổng Trời chắc chắn...
saigonxua.blog.ca/2007/03/04/on_ca_7889_truy_tan_pha_7843_i_cha_7871_~1847816 - Similar pages - Note this
- KIỀU DUY VĨNH: TẾT Ở TRẠI CỔNG TRỜI
Chỉ nhìn thấy Cha Vinh, Cha Quế vào đó và không thấy hai cha đó ra về nữa mà... Ở Cổng Trời một năm chia làm hai mùa: Mùa nóng b¡t đầu từ đầu tháng Năm;...
www.hungviet.org/ncct/kieuduyvinh_ct2.html - 21k - Cached - Similar pages - Note this
- K. Vĩnh TK21 #98, Tháng 6 1997: Hồi Ức Cuộc Tuyệt Thực Ở Trại Cổng Trời. 1/8 Âm lịch năm 1994
K. Vĩnh 2003-10-25 13:02:01
- Kiều Duy Vĩnh: Đức Thánh Tử Vì Đạo Thứ Hai Mà Tôi Được Gặp. Kiều Duy Vĩnh TK21 #100 Tháng 8 1997
http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=6973
2003-10-25 12:48:03
- Trong số bốn vị trên, Lm Vịnh chết trong tù ở trại Cổng Trời, Lm Thông 27 năm tù,... .. Bá cáo của Nguyễn Đình Đầu viết về Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình....
vietcatholic.net/News/Html/52570.htm - 46k - Cached - Similar pages - Note this
Oakland, CA Đỗ Hữu Nghiêm biên soạn xong ngày 17/4/2008.5. Ngày sinh nhật Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, nhân chuyến đến thăm Hoa Kỳ ngày thứ hai (15-20/4/2008) tại Washington D.C.
Đây là bản sơ thảo cần nhiều bổ sung chi tiết chính xác. Quý vị nào có những tư liệu liên hệ để hiệu chính, xin vui lòng cung cấp cho người biên soạn theo địa chỉ: email: nghiemdohuu@gmail.com