Điều gì xẩy ra khi ngài còn phục vụ ở Á Căn Đình?

Ngược với khuôn mạo hiện nay của ngài như một hình tượng truyền thông, Đức Hồng Y Bergolio phần lớn giữ một khuôn mạo khiêm tốn lúc còn ở Buenos Aires. Những bạn bè biết ngài trong thời gian ấy thẩy đều bỡ ngỡ trước sự biến đổi lúc làm giáo hoàng của ngài, khả năng mới mẻ trong việc chiếu tỏa sự ấm áp và tự phát, được nhiều người gán cho hiệu quả của ơn chức vụ.

Dịp duy nhất khiến Đức Hồng Y Bergoglio bị kéo vào trận cuồng phong chính trị diễn ra trong cuộc tranh luận quốc gia ở Á Căn Đình về hôn nhân đồng tính năm 2010, nhưng ngài làm thế vì ngài là chủ tịch của hội đồng giám mục lúc ấy, nên cảm thấy có nghĩa vụ phảỉ bảo vệ lập trường cứng rắn của đa số. Lúc tư riêng, ngài cho mọi người hay ngài sẵn sàng chấp nhận một giải pháp thỏa hiệp đối với các cuộc kết hợp theo dân luật.

Cải cách mang dấu ấn của ngài là phái nhiều linh mục vào các khu ổ chuột, có tên là “biệt thự khốn cùng” để chia sẻ cuộc sống của người nghèo. Đức Hồng Y Bergoglio dành rất nhiều thì giờ của ngài cho các khu này. Một trong các linh mục của ngài, Cha Juan Ismendi, cho hay các khu ổ chuột là nơi Đức Hồng Y Bergoglio lấy “dưỡng khí” cần thiết để suy nghĩ về việc Giáo Hội phải nên như thế nào.

Đức Hồng Y Bergoglio cũng đóng một vai trò lãnh đạo giữa các giám mục của Châu Mỹ La Tinh, giúp soạn ra văn kiện năm 2007 nhằm kêu gọi một cuộc “truyền giáo cho đại lục”, giúp Đạo Công Giáo phục hồi từ các mất mát của nó đối với phái ngũ tuần và tin lành nói chung, và cũng xa gần ủng hộ một phong trào hướng tới việc hội nhập toàn thể đại lục, dưới danh hiệu Patria Grande (Đại Quê Hương).

Ngài đóng vai trò gì trong “Cuộc Chiến Bẩn Thỉu” của Á Căn Đình?

Trong thời gian trên, vai trò của ngài đã là một điều để tranh luận. Năm 2005, một nhà báo Á Căn Đình cánh tả và là cựu du kích chiến tên Horacio Verbitsky, vốn thân cận với chính phủ của Nữ Tổng Thống Christina Kirchner, tố cáo Đức Hồng Y Bergoglio đồng loã trong việc bắt giam và tra tấn hai tu sĩ Dòng Tên cấp tiến trong cuộc Chiến Tranh Bẩn Thỉu.

Các cáo buộc trên liên tiếp bị bác bỏ, bởi cả một trong các tu sĩ Dòng Tên bị tra tấn, Cha Farnz Jalics, người đã nói thẳng thừng rằng ngài và các đồng linh mục tranh đấu “không bị Cha Bergoglio tố cáo”. Em gái của Đức Giáo Hoàng, Maria Elena Bergoglio, cũng nói rằng gia đình trốn khỏi Ý trong thập niên 1920, một phần vì chống lại bầu khí phátxít đang lớn dần dưới thời Mussolini; bà nhấn mạnh rằng anh trai bà không thể phản bội lại di sản này.

Một cuốn sách gần đây của nhà báo Ý Nello Scavo, tựa là Danh Sách Của Bergoglio, ví vị giáo hoàng tương lai là Oscar Schindler của Á Căn Đình, tránh không phản đối công khai để có thể giúp đỡ nhiều người ở hậu trường. Một trường hợp như thế là một luật sư Á Căn Đình và là nhà tranh đấu nhân quyền tên là Alicia Oliveira, có 3 đứa con được Cha Bergoglio cho trú tại một trường học Dòng Tên khi mẹ chúng phải đi ẩn trốn. Bà cho hay hai lần mỗi tuần, Cha Bergoglio đều đem bà tới gặp các con, bất chấp sự kiện đã có lệnh bắt giam bà.

Bà nói với Scavo “Không ai cần giải thích cho tôi hay Cha Bergoglio là ai. Ngài giúp đỡ nhiều người bị bách hại trốn thoát, đặt chính mạng sống của ngài vào thế nguy hiểm”.

Sau khi trở thành giáo hoàng, các hành động đầu tiên của ngài là gì?

Quyết định đầu tiên của bất cứ vị giáo hoàng nào là chọn một tên hiệu, và trong trường hợp này, tên hiệu gây ngạc nhiên rất lớn: Phanxicô, gợi lại hình ảnh Thánh Phanxicô đầy hình tượng của thế kỷ 12 và 13 và tình yêu của vị thánh dành cho “Công Nương Nghèo”. Quan tâm của vị tân giáo hoàng đối với người nghèo đã được nói một cách ngắn gọn vào ba ngày sau, khi ngài tỏ ý mong ước có “một Giáo Hội nghèo cho người nghèo”.

Một số các nhà chuyên môn về ngôi vị giáo hoàng nói rằng không vị giáo hoàng nào đã lấy tên Phanxicô, vì cùng một lý do như không vị nào lấy tên Giêsu hay Phêrô, vì chỉ có một vị có tên đó mà thôi. Bởi thế, việc chọn tên này là dấu hiệu đầu tiên cho thấy đây là một vị giáo hoàng không bị trói buộc bởi tập quán.

Khi ngài tự giới thiệu ngài cho thế giới, tân giáo hoàng lại phá truyền thống một lần nữa, bằng cách xin đám đông ở Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô cầu nguyện cho ngài trước khi ngài ban phép lành. Mấy ngày sau đó, ngài tiếp tục làm theo lối riêng của ngài: dùng xe búyt hơn là xe limousine của giáo hoàng, bỏ điện giáo hoàng để ngụ tại một căn phòng khiêm tốn ở một khách sạn của Vatican, bỏ các bản văn dọn sẵn để nói ứng khẩu, và lao vào đám đông gần như không e dè gì.

Ngài cũng cho biết rõ: là một nhà quản trị, ngài không bị bất cứ ai lèo lái. Ngài giữ lịch riêng, qua mặt các người canh cửa, theo truyền thống, vẫn kiểm soát việc ra vào để gặp xếp, và tự động gọi điện thoại, đôi khi gọi người lạ hoắc từng viết thư xin chuyện vãn với ngài.
Kết quả thuần của đức đơn sơ, và nhân cách dễ dãi của ngài, là để làm sống dậy uy thế và sức hấp dẫn của ngôi vị giáo hoàng. Trước khi ngài được bầu, các câu truyện nổi bật của truyền thông về Giáo Hội Công Giáo tập chú vào các tai tiếng lạm dụng tình dục, các biến cố gây tai họa (meltdowns) của Vatican, và các tranh cãi chính trị gây thương tổn. Dù không có điều nào trong các điều vừa kể đã biến đi, nhưng sau khi đức Phanxicô lên ngôi, câu chuyện cốt lõi đã trở thành “Vị giáo hoàng minh tinh nhạc rock đang khiến thế giới bốc lửa!”.

Chóp đỉnh nghị trình của ngài có những cuộc cải tổ nào?

Đức Phanxicô từng nói rằng cải tổ trong Giáo Hội là một diễn trình hai bước. Thứ nhất, người ta phải làm cho “các thái độ” ra đúng đắn, nghĩa là phải có viễn kiến và các ưu tiên, thì rồi các cơ cấu và chính sách sẽ đến sau.

Về các thái độ, Đức Phanxicô dự tính một viễn kiến mới mẻ về việc lãnh đạo trong Giáo Hội, bác bỏ điều ngài gọi là “tâm lý học ông hoàng”, ủng hộ các vị mục tử mang “mùi chiên của họ” vì họ gần gũi với người dân thường.

Ngài cũng đã kêu gọi một Giáo Hội biết ưu tiên hóa việc vươn tay ra bên ngoài, nhất là để chào đón những người đã bỏ đi, trong tinh thần của dụ ngôn người con trai hoang đàng trong Thánh Kinh. Một trong những câu nói ngài ưa thích là giáo hội nào dành quá nhiều thì giờ ở phòng áo lễ sẽ bị bệnh; muốn khỏe mạnh, phải ra ngoài phố.

Về cơ cấu, Đức Phanxicô đã lập ra tân Hội Đồng Hồng Y, gồm 8 (sau tăng lên 9) nhà lãnh đạo khắp thế giới, thuộc mọi lục địa, với ý niệm bảo đảm để tiếng nói của các giáo hội địa phương được nghe tốt hơn ở Rôma. Ngài cũng lập ra hai Ủy Ban để xem xét việc cải tổ, một ủy ban nghiên cứu Viện Các Công Trình Tôn Giáo, vốn được gọi là Ngân Hàng Vatican, và ủy ban kia lo nghiên cứu các cơ cấu kinh tế và hành chánh bao quát hơn.

Nói chung, Đức Phanxicô cho biết rõ ngài muốn nền tài chánh của Vatican hoạt động theo hướng trong sáng và trách nhiệm giải trình nhiều hơn, dù về mặt công khai, ngài vốn thả nổi khả năng có thể đóng cửa ngân hàng này nếu nó chứng tỏ không thể cải tổ.

Ngài cũng thay đổi các nhân viên chủ chốt; nói chung, ngài thích các nhà ngoại giao ôn hòa hơn những người kiên định về tín lý, và ngài triệu tập thượng hội đồng giám mục thế giới vào tháng Mười để nói về hôn nhân, trong đó, có vấn để gây tranh cãi là cho phép người Công Giáo ly dị và tái hôn rước lễ.

Ngài có lập trường nào về các cuộc chiến văn hóa?

Trong cuộc phỏng vấn nổi tiếng của ngài với tờ báo của Dòng Tên hồi tháng Chín năm 2013, Đức Phanxicô nói rằng “giáo huấn của Giáo Hội rất rõ ràng” đối với các vấn đề như ngừa thai, phá thai, và hôn nhân đồng tính, nên “không cần phải nói về các vấn đề này bất cứ lúc nào”. Các nhà bình luận coi các phát biểu này như dấu chỉ cho thấy vị giáo hoàng đương nhiệm không chú tâm vào các cuộc chiến văn hóa của Tây Phương, và tạo ra khá nhiều lo lắng nơi các giới phò sự sống.

Robert Royal, một trí thức Công Giáo đáng kính và là chủ tịch của trung tâm nghiên cứu Faith and Reason (Đức Tin và Lý Trí), đặt trụ sở ở Washington D.C., mô tả phản ứng trên như sau: “Khi NARAL [nhóm tranh đấu quyền phá thai] gửi cho bạn thiệp cám ơn, thì rõ ràng có điều gì đó lầm lẫn trong thông đạt”.

Khắp thế giới, các giám mục cảm thấy có bổn phận phải làm những người phò sự sống an tâm bằng cách nói với họ rằng không phải Đức Giáo Hoàng hết hỗ trợ họ đâu.

Đức Hồng Y Sean O’Malley của Boston, chẳng hạn, nói rằng “tôi nghĩ ngài nói về tình yêu và lòng thương xót để cho người ta thấy ngữ cảnh giáo huấn của Giáo Hội về phá thai. Chúng ta chống đối phá thai, không phải vì chúng ta nhỏ mọn hay cổ lổ sĩ, mà vì chúng ta yêu thương người ta”.

Thực vậy, không có dấu chỉ nào cho thấy Đức Phanxicô muốn xem xét lại toàn bộ giáo huấn của Giáo Hội về luân lý tính dục và ta có mọi lý do để tin rằng ngài cũng cam kết đối với “Tin Mừng Sự Sống” y như các vị tiền nhiệm.

Mấy ngày sau khi cuộc phỏng vấn của tờ báo Dòng Tên được công bố, Đức Phanxicô đọc một bài diễn văn trước Liên Đoàn Quốc Tế Các Hiệp Hội Y Khoa Công Giáo. Trong bài diễn văn này, ngài trình bầy một sứ điệp phò sự sống rất mạnh. Ngài nói: “Mọi trẻ em chưa sinh ra, bị kết án một cách bất công phải bị phá thai, đều mang gương mặt của Thiên Chúa, Đấng trước khi được sinh ra và ngay sau khi sinh ra, đả cảm nhận sự bác bỏ của thế giới”.

Sự thay đổi dưới triều Đức Phanxicô, do đó, không phải là sự thay đổi về nội dung, mà chỉ là vấ đề chiến lược. Ngài tin Giáo Hội đã đưa ra các lập trường rõ rệt về các cuộc chiến văn hóa, và nay là lúc làm hai việc khác: tỏa chiếu gương mặt thương xót lên những người đang lao đao với các vấn đề đạo đức khó khăn và đề cao tin mừng xã hội của Giáo Hội. Dù hai điểm ưu tiên này không hủy bỏ giáo huấn của Giáo Hội, song chúng chắc chắn hiệu chuẩn lại cách người tín hữu thông thường tiếp nhận giáo huấn này.

Đâu là các ưu tiên chính trị của ngài?

Dù Đức Phanxicô từng nói rằng người giáo dân, chứ không phải các giáo sĩ, phải dẫn đầu việc giải quyết các vấn đề chính trị của thời đại, song điều này không có nghĩa ngài không có gì để nói về vấn đề này.

Thí dụ, Đức Phanxicô từng cảnh cáo chống lại các thái quá của điều ngài gọi là “chủ nghĩa tư bản man rợ”. Trong một bài diễn văn với 20,000 công nhân thất nghiệp ở Cagliari, Ý, hồi tháng Chín năm 2012, ngài cho biết: “chúng ta không muốn hệ thống kinh tế hoàn cầu hóa này gây hại cho chúng ta đến thế. Các người nam nữ phải nằm ở tâm điểm [hệ thống kinh tế] chứ không phải tiền bạc”.

Khi ngài đến thăm Ba Tây hồi tháng Bẩy, ngài dừng chân tại một favela, tức khu ổ chuột, gọi là Varginha, được coi như “Giải Gaza” của Rio vì đây là hiện trường của các vụ xô xát đẫm máu giữa các băng đảng giành quyền kiểm soát cũng như giữa các băng đảng và cảnh sát. Năm 2012, các cơ quan an ninh đã tổ chức một cuộc tấn công ồ ạt, và các giới chức ở Rio khoe khoang rằng ngày nay hòa bình đã trở lại, một lập trường bị Đức Giáo Hoàng thẳng thừng thách thức.

Hôm đó, ngài nói: “không một chút ‘xây dựng hòa bình’ nào lâu bền cả, và cũng không có sự hòa hợp và hạnh phúc nào đạt được trong một xã hội làm ngơ, đẩy một phần của mình qua bên lề hay trừ khử họ. Một xã hội loại này chì đơn giản làm mình ra nghèo nàn, đánh mất một điều gì đó có tính chủ yếu”.

Đức Phanxicô cũng lưu ý tới quyền lợi của di dân và hòa bình. Ngày 8 tháng Bẩy năm 2013, ngài tới thăm Đảo Lampedusa, một địa điểm chính cho các di dân nghèo khổ tìm cách tới Âu Châu, để lên án “việc hoàn cầu hóa lòng dửng dưng”. Ngài cũng phát động một áp lực toàn diện chống lại sự can thiệp quân sự của Tây Phương vào Syria, qua lời kêu gọi một ngày hoàn cầu ăn chay và cầu nguyện cho hòa bình vào hôm mồng 7 tháng Chín.

Nhiệm kỳ của Đức Phanxicô cho ta biết điều gì về tương lai Giáo Hội?

Dù quá sớm để lượng định di sản lâu dài của Đức Phanxicô, ít nhất cũng có 3 điểm khá rõ ràng cho thấy Giáo Hôi đang đi về đâu dưới sự dìu dắt của ngài.

Thứ nhất, Đức Phanxicô đang tượng trưng cho việc đi lên của thế giới đang phát triển và vai trò lãnh đạo mà các cá nhân và phong trào ở bên ngoài Tây Phương sẽ đảm nhiệm. Đến giữa thế kỷ này, 3 phần 4 người Công Giáo sẽ sống ở Nam Bán Cầu, và càng ngày các thiên hướng và ưu tiên của họ càng có khuynh hướng đặt định ra các sắc thái. Theo chiều hướng này, Đức Phanxicô là biểu tượng tối hậu của việc biến đổi dân số học sâu xa đang lên khuôn lại Đạo Công Giáo.

Thứ hai, sau 35 năm dưới sự lãnh đạo của Đức Gioan Phaolô II và của Đức Bênêđíctô XVI, trong đó phần lớn người ta tri cảm Đạo Công Giáo như dạt qua cánh hữu, điều xem ra rõ ràng là Đức Phanxicô muốn đem Giáo Hội trở lại cánh giữa, cả trong các ưu tiên chính trị lẫn sinh hoạt tín lý và phụng vụ nội bộ. Ngoài nhiều khía cạnh khác, điều này hàm nghĩa đề cao tin mừng xã hội của Giáo Hội, tức các quan tâm đối với người nghèo, hòa bình, và môi trường, cùng với nghị trình phò sự sống.

Thứ ba, Đức Phanxicô cũng hiệu chuẩn lại các chờ mong đối với các vị lãnh đạo Công Giáo, nhất là các vị giám mục của Giáo Hội. Vì cung giọng mới ngài đưa ra, người Công Giáo khắp thế giới hiện nay chờ mong các giám mục của họ sống và ăn mặc khiêm tốn hơn, năng lui tới với người dân bình thường hơn, ra ngoài và biểu lộ một tinh thần ngược xuôi hơn đối với việc truyền giáo, và tỏa chiếu một gương mặt cảm thương hơn cho sứ điệp Công Giáo.

Liệu có thành công không? Vẫn còn nhiều tranh luận về việc này, nhưng đây là một tình tiết nhỏ nhưng nói lên khá nhiều: hồi tháng Năm, một vị Hồng Y cựu trào người Ý, người bình thường lúc nào cũng trịnh trọng, ăn vận bảnh bao theo lối giáo sĩ, nay xuất hiện tại một nhà hàng ở Rôma, ăn vận xoàng xĩnh trông thấy. Được hỏi về sự thay đổi, ngài đưa ra câu trả lời khá dí dỏm: do “hiệu quả Phanxicô”.

Vị Hồng Y trên nói rằng: “dưới thời vị giáo hoàng này, sống đơn giản là hợp thời trang!”

Hết

Kỳ sau: Các Tài Liệu Nên Đọc