Deo Favente
Deo Favente, Nhờ Chúa thương, Nhờ Chúa giúp. Được nói trước khi bắt đầu vào một việc mà tương lai được phó thác cho Chúa quan phòng.
Deo Gratias
Deo Gratias, Tạ ơn Chúa. Một trong những câu đáp trong phụng vụ Thánh thể, chẳng hạn vào cuối Thánh lễ. Cũng là câu được một số cộng đoàn Dòng tu sử dụng, để bắt đầu hay kết thúc một việc chung cộng đoàn, chẳng hạn đọc sách hay nói chuyện trong bữa ăn.
Deontologism
Nghĩa vụ luận. Thuyết gắn liền với triết gia Immanuel Kant (1724-1804), cho rằng chỉ có các hành vi làm với động cơ nghĩa vụ mới có giá trị luân lý. Đây là một triết học đạo đức cứng rắn, gần với phái Khắc kỷ, chủ trương rằng nhân đức là phần thưởng riêng rồi, do đó “nghĩa vụ vì nghĩa vụ” là mệnh lệnh đạo đức cao nhất của con người. (Từ nguyên Hi Lạp deon, bắt buộc + logia, khoa học, kiến thức.)
Deontology
Nghĩa vụ học, đạo nghĩa học. Một từ ngữ đuợc đưa vào triết học bởi Jeremy Bentham (1748-1832) năm 1826, để đặt cho khoa học về đạo nghĩa hoặc nghĩa vụ học, chủ yếu để phân biệt với luật hoặc pháp luật học.
Deo Optimo Maximo
Deo Optimo Maximo, Kính dâng Thiên Chúa Chí thiện Chí đại. Khẩu hiệu của Dòng Biển Đức. Cũng còn viết là Domino Optimo Maximo (Kính dâng Thiên Chúa Chí thiện Chí đại.)
Deo Volente
Deo Volente, Chúa muốn, nếu Chúa muốn. Lời nói phó thác cho ý Chúa khi làm một công việc mà kết quả của nó là không chắc chắn theo cách nói của con người.
Depression
Chán nản, nhụt chí, suy sút tinh thần, trầm cảm. Một từ ngữ được các nhà tu đức dùng để mô tả tình trạng nhụt chí, trong đó một người cảm thấy thiếu tự tin, muốn rút lui, thiếu sự đáp trả cho kích thích thông thường, và bi quan về tương lai. Các nhà thần học tu đức khổ chế cảnh báo về việc đừng để thua các tâm trạng suy sút tinh thần, mà các ngài mô tả như là đặc tính cám dỗ cho những người phấn đấu sống thánh thiện.
De Profundis
Thánh vịnh De Profundis, Thánh vịnh 129 “Từ vực sâu”. Thánh vịnh này là một trong 15 thánh vịnh Lên đền và một trong bảy thánh vịnh Thống hối. Nó là một phần trong Thần vụ, thường đọc hay hát trong giờ Kinh Chiều, và luôn hát hay đọc trong Giờ kinh cầu cho tín hữu quá cố. Trong Cẩm nang các Ân xá được duyệt lại, có tiểu xá cho mỗi lần đọc thánh vịnh De Produndis. Đây là đề tài kêu xin lòng thương xót của Chúa, và diễn tả sự tín thác tin tưởng vào Chúa. Tại một số quốc gia, Thánh vịnh này được đọc cùng với việc rung chuông vào khoảng 9 giờ tối, và tại Ireland thánh vịnh thường được đọc cuối Thánh lễ, sau bài Tin mừng cuối cùng, để cầu cho nạn nhân của các vụ bách hại tôn giáo trước đây.
Desacralization
Phi thánh thiêng hóa. Là sự tách ra hoặc làm giảm các biểu tượng thánh thiêng khỏi đời sống tôn giáo và phụng tự. Trong Kitô giáo đó là hệ quả thực tiễn của việc giải trừ huyền thoại khỏi Kinh thánh và thánh truyền. Khi lòng tin của con người ít quan tâm đến các mầu nhiệm mặc khải liên quan đến Chúa, bộ nghi lễ tôn giáo của họ trờ thành phi thánh thiêng hóa.
Descent Into Hell
Xuống ngục tổ tông. Là việc Chúa Kitô xuống ngục Tổ tông, trước khi Ngài sống lại, để giải thoát các linh hồn đang tạm ở đó. Mục đích của việc Chúa xuống ngục Tổ tông là giải thoát mọi linh hồn được cứu vớt, khi họ qua đời trước khi áp dụng các hoa quả của công trình Cứu độ. Khi Chúa xuống ngục Tổ tông, họ được diện kiến thánh nhan Chúa ngay lập tức. Giáo lý này được dạy trong mọi kinh Tin kính thời đầu và được Công đồng chung Lateran thứ tư định tín. (Denzinger 429).
Desecration
Giải thánh, giải hóa thánh thiêng. Là sự làm uế tạp một người, một nơi hoặc một vật đã được cung hiến. Các nhà thờ bị giải thánh do các tội ác phạm trong đó, chẳng hạn giết người chủ tâm, hoặc sử dụng nơi thánh cho mục đích vô thần hoặc xấu xa. Một nhà thờ bị giải thánh phải được tái cung hiến trước khi việc Phụng tự có thể được thực hiện tại đó. (Từ nguyên Latinh dis, trái với + sacrare, cung hiến, hiến thánh.)
De Seq
De sequenti—của ngày lễ hôm sau.
Desert (In The Bible)
Sa mạc trong Kinh thánh, nơi hoang vắng. Một vùng đất hoang hóa, thường không có người ở nhưng nhất thiết không phải không có nước, hoặc là nơi không thể không sinh sống được. Sa mạc chính được nói trong Kinh thánh là nơi mà dân Do Thái đã đi băng qua, sau khi họ vượt qua Biển Đỏ và cho đến khi họ tới được Đất Hứa. Các sa mạc khác có tầm quan trọng trong Kinh thánh là sa mạc Judah, ở phía tây sông Jordan và Biển Chết; sa mạc Arabia, Moab, và Idumea, ở phía đông Palestine, gần Biển Chết; sa mạc Ziph, nơi Vua David đến ở khi chạy trốn Saul, ở phía nam Biển Chết và Hebron. Thánh Gioan Tẩy giả sống và giảng dạy tại sa mạc Judaea, gần Jericho. Cuộc cám dỗ Chúa Kitô được cho là diễn ra trong sa mạc ở phía tây sông Jordan.
Desertion
Bỏ rơi. Là hành động bỏ rơi hoặc từ bỏ một người hoặc một tình trạng mà trước đó đã tự do chấp nhận. Cha mẹ, vợ chồng, con cái, hoặc một cộng đoàn tu sĩ có thể là nạn nhân của sự bỏ rơi.
Desire
Thèm muốn, khát vọng, ước vọng. Là mong muốn hoặc thèm muốn một sự sở hữu, hay thèm hưởng một điều gì mà sự thèm muốn của người ấy không có vào lúc đó. Các thèm muốn là tự nhiên nếu chúng phát sinh từ việc người ta thiếu do bẩm sinh; chúng là siêu nhiên khi được linh hứng bởi ơn Chúa. Bản tính sa ngã của con người có những thèm muốn hướng về sự tội, nhưng thay vì sa vào tội lỗi, các thèm muốn dục vọng này là một nguồn công đức miễn là chúng được kiểm soát hợp theo ý Chúa.
Desire For Beatitude
Thèm muốn hạnh phúc, khát vọng hạnh phúc. Là mong muốn tự nhiên cho được hạnh phúc trọn vẹn. Khuynh hướng cơ bản của con người là được hạnh phúc cách đầy đủ. Khát vọng phổ quát này được tìm thấy trong mọi người chẳng trừ ai, ngay cả trong người bất thường hay khuyết tật, mặc dầu với sự lệch lạc nào đó. Khát vọng này cũng không thể không tránh được, vì nó kéo dài suốt cả đời người. Cuối cùng nó cũng không thể cưỡng lại được, vì nó liên lỉ đòi sự thỏa mãn. Sự bất an không ngừng của con người, được thấy trong sự hoạt đông liên tục của nó, là sự diễn tả cho khát vọng bẩm sinh này dưới nhiều hình thức khác nhau. Các nhà thần học thảo luận liệu bản năng vì hạnh phúc viên mãn này là một khát vọng tự nhiên hướng về thiên đàng hay không. Giáo hội giải thích rằng ân sủng dựa vào tự nhiên, và do đó ý chí con người được ân sủng linh hứng có thể có một khát vọng mạnh hướng về thiên đàng và chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa. Nhưng đây đã là một đức cậy siêu nhiên và không thuộc về bản tính con người.
Desolation
Sầu khổ thiêng liêng, phiền muộn, cô đơn. Là một sự sầu phiền tạm thời của tâm trí và sự xáo trộn của ý chí và cảm xúc, được Chúa cho phép để thanh luyện linh hồn các tín hữu. Nó có thể do quỹ dữ gây ra hoặc do một loạt nguyên nhân khác, nhưng nó luôn có mục đích, cụ thể là kéo tình cảm con người ra khỏi các thụ tạo và đem tình cảm ấy đến gần với Đấng Tạo thành hơn. (Từ nguyên Latinh de, từ, khỏi + solus, một mình, đơn côi, cô đơn.)
Despair
Thất vọng, tuyệt vọng. Là tội lỗi mà một người từ bỏ mọi niềm hy vọng cứu độ hoặc phương tiện cần thiết để vào thiên đàng. Như thế nó không phải là thuần túy lo âu về tương lai hoặc sợ rằng người ta bị mất ơn cứu độ. Nhưng nó là sự đầu hàng cố ý cho ý tưởng rằng bản tính con người không thể hợp tác với ân sủng của Chúa, hoặc rằng người thất vọng là quá xấu xa đến nỗi không thể được cứu độ nữa, hoặc Chúa đã bỏ rơi mình rồi. Đây là một tội trọng chống lại lòng nhân từ của Chúa. Kinh nghiệm cũng cho thấy rằng một xu hướng tuyệt vọng có thể làm tổn thương nghiêm trọng cho sức khỏe thể lý và tinh thần của con người, và mỉa mai thay có thể dẫn đến mọi thứ nuông chiều tội lỗi. (Từ nguyên Latinh de, ngược lại + sperare, hy vọng: desperatio, thất vọng.)
Despotism
Chuyên quyền, chuyên chế. Trong triết học kinh viện, đây là sự cai trị như một người độc tài, hoặc vì lợi ích của nhà cầm quyền, hoặc ít nhất là độc đóan và không quan tâm đến quyền lợi của người bị trị. (Từ nguyên Latinh despoticus, chuyên chế; từ chữ Hi lạp despot_s, người thấy, người chủ.)
Destiny
Số mệnh, vận mạng, thiên mệnh. Nói cách tổng quát, là trật tự được xếp đặt sẵn của các sự việc. Do đó, vận mạng con người là việc Chúa xếp đặt mọi nguyên nhân phụ thuộc dẫn đến mục đích sự hiện hữu của con người, đó là có Chúa bên mình ở Thiên đàng. Nhưng vận mạng này luôn là có điều kiện, tùy thuộc vào sự hợp tác chủ ý của con người với ân sủng Chúa. Trong từ ngữ ngọai giáo, số mệnh là số phận của mỗi người đã được tiền định nhất thiết trước rồi. (Từ nguyên Latinh de, xuống + stanare, làm cho đứng vững: destinare, giải quyềt chắc chắn.)
Detachment
Siêu thóat, không dính bén, dứt bỏ. Trong tu đức học, là sự không quyến luyến các thụ tạo vì lòng mến yêu Đấng tạo hóa. Khi tội trọng có dính líu, sự dứt bỏ tội là mệnh lệnh cho được cứu độ. Sự dứt bỏ các thụ tạo, vốn là trở ngại cho việc phục vụ trọn vẹn cho Chúa, là một điều kiện thông thường để tiến tới trong đàng nhân đức thánh thiện.
Determinism, Absolute
Thuyết tất định tuyệt đối. Là triết học chối bỏ ý muốn tự do vào Chúa hay vào con người. Mọi thuyết phiếm thần là các hình thức của thuyết tất định tuyệt đối.
Determinism, Natural
Thuyết tất định tự nhiên. Là quan điểm cho rằng ý chí con người là hòan tòan bị xác định bởi bản tính, trong đó có di truyền, giáo dục, môi trường hoặc kết hợp các yếu tố này. Do đó, thuyết cho rằng ý chí con người không tự do hơn thân xác thể lý của con người.
Determinism, Theological
Thuyết tất định thần học. Là thuyết nói rằng ý chí con người là không tự do trong bất cứ hành vi nào của nó, nhưng được quyết định bởi ý Chúa.
Detraction
Nói hành, nói xấu, gièm pha. Là tỏ lộ điều gì về người khác, vốn là đúng nhưng ảnh hưởng xấu cho thanh danh người ấy. Cấm tỏ lộ lỗi mật hay khiếm khuyết mật của người khác, trừ phi có sự lành tương xứng liên quan. Một điều gì đúng tự thân nó không biện minh cho việc tiết lộ nó được. Nói xấu là một tội chống đức công bình. Nó bộc lộ một trong những điều mà đa số người khác xem là quan trọng hơn của cải, bởi vì một người có quyền giữ thanh danh của mình, dù nó có đáng hay là không. (Từ nguyên Latinh detractio, sự rút lui.)
Deus Ex Machina
Deus ex machina, giải pháp thần diệu, kết cục thần tình. Nghĩa đen là “vị thần từ cái máy”, nhắc nhở đến thủ thuật đưa một thần linh hiện ra trên sân khấu cổ, để ban một giải pháp thần diệu cho một khó khăn kịch tính. Từ ngữ này có nghĩa là bất cứ ý tưởng, sự việc, hay nhân vật được đưa vào một cách nhân tạo để giải quyết một tình trạng xem là bất khả.
Deus Vult
Deus Vult, Chúa muốn, Chúa muốn việc này. Khẩu hiệu của các người tham gia Thập tự chinh.
Deuterocanonical
Thứ quy, thuộc thứ quy điển. Là sự quy chiếu đến các cuốn sách hay các đọan văn trong Cựu Ước và Tân Ước, vốn đã gây ra nhiều tranh cãi một thời trong thời đầu lịch sử Kitô giáo. Trong Cựu Ước, đó là sách Tôbia, Giuđitha, Khôn ngoan, Huấn ca, Barúc, I và II Macabê, vài phần của Ette (10:4-16, 14) và Đanien (3:24-90, 13, 14). Trong Tân ước, đó là Thư Do thái, Thư Giacôbê, Thư II Phêrô, Thư II và III Gioan, Khải huyền và Marcô 16:9-20. Tất cả các sách và các phần trên đây đều được Giáo hội Công giáo công nhận là một phần của chính lục (hay quy điển) Kinh thánh. Nơi một số giáo phái Tin lành, các sách thứ quy của Cựu Ước đều bị lọai bỏ, vì xem là ngụy thư, cùng với 12 câu cuối cùng của Tin mừng theo thánh Marcô.
Deuteronomy
Sách Đệ Nhị luật (Đnl). Là cuốn sách thứ năm của Kinh thánh. Tên của nó (từ ngữ Hi Lạp deuteros, thứ hai; nomos, luật) là một từ mô tả sai, bởi vì sách không chứa luật mới, nhưng nhắc lại một phần các luật cũ với sự khuyến khích khẩn thiết người ta giữ các luật ấy. Phần đầu xem lại các biến cố xảy ra sau khi công bố luật (ch 1-4). Phần thứ hai là dài nhất (ch 5-26) và nhắc lại Giao Ước, nói về nghĩa vụ của người Do Thái đối với Chúa (ch 5-11), các vị đại diện của Chúa và những người láng giềng. Phần thứ ba là lời kêu xin tuân giữ luật Chúa, đổi mới giao ước với Đức Chúa (Chúa Giavê), và bài ca của ông Moses (Mô-sê), trong khi chỉ định ông Joshua (Giô-suê) làm người kế vị cho mình.
Devil
Qủy, ác thần, tà thần, ác quỷ. Là thiên thần sa ngã hay thần dữ, nhất là thủ lĩnh các thiên thần phản lọan, gọi tên là Lucifer hay Satan, Ác Quỷ (Mt 25). Lúc tạo thành, thiên thần này có ơn thánh hóa, nhưng phạm tội do kiêu ngạo và cùng với nhiều thiên thần khác, bị từ chối chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa. Nơi ở của Ác quỷ là hỏa ngục và không được hưởng các lợi ích của việc Chúa cứu chuộc. Tuy nhiên ác quỷ vẫn là một thần có lý trí, được khẳng định là thần dữ, được Chúa cho phép tạo ảnh hưởng phần nào trên các lòai sống động và bất động. (Từ nguyên Hi Lạp diabolos, người tàn phá.)
Devil'S Advocate (Advocatus Diaboli)
Luật sư của quỷ, kháng viên phe quỷ, kháng biện viên án phong thánh, Advocatus Diaboli. Là tên bình dân dành cho một luật sư của Chúa, tức là một chức sắc Tòa thánh làm kháng biện viên trong diễn tiến án phong á thánh và phong thánh. Từ ngữ được chọn từ sự việc rằng ngài được yêu cầu nêu ra các lời phản đối, chống lại sự thánh thiện hoặc danh tiếng làm các phép lạ của người đang được điều tra, để phong á thánh hay phong thánh.
Devotion
Lòng sùng kính, sùng đạo, sùng mộ, sốt sắng. Sự sẵn sàng của ý chí để làm ngay việc liên quan đến thờ phượng và phụng sự Chúa. Mặc dầu sự sùng đạo là sự sẵn sàng hoặc một thái độ của ý chí, các hành vi phát sinh từ sự sẵn sàng này cũng diễn tả lòng sùng kính nữa. Cốt yếu của lòng sùng mộ là sự sẵn sàng làm tất cả những gì để tôn vinh Chúa, hoặc nơi cầu nguyện chung hay riêng (phụng tự) hoặc làm theo ý Chúa (phục vụ Chúa). Một người có thái độ sẵn sàng như thế được gọi là người sùng mộ. Lòng sùng mộ này bắt nguồn từ lòng yêu mến Chúa, mà trong thần học thiêng liêng thường gọi là lòng sốt sắng. (Từ nguyên Latinh devotio, sự sùng kính; từ chữ devovere, thề, khấn.)
Devout Life, Introduction To The
Cuốn sách “Nhập môn đời đạo hạnh”, “Giới thiệu về Cuộc sống Sùng Mộ Ðạo”. Là cuốn sách đường thiêng liêng nổi tiếng của thánh Phanxicô de Sales (1567-1622). Nguyên thủy đây là cuốn cẩm nang ngài viết để sử dụng riêng tư cho vợ của người em họ, Madame de Charmoisy, sau đó cuốn sách được duyệt lại và phổ biến cho nhiều người. Sách được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1609 tại Lyons (Pháp), và lần cuối vào năm 1619. Mục đích của cuốn sách này là nêu ra các chỉ dẫn cụ thể để phát triển đường thánh thiện cho những người sống giữa chợ đời, nhưng lại có sự hấp dẫn rộng lớn cho người ở mọi bậc sống.
D.G.
Dei gratia, nhờ ơn Chúa.
Diabolism
Ma thuật, yêu thuật, tin vào ma quỷ. Là bất cứ hình thức nào để giao tiếp hoặc cố gắng tiếp xúc với thần dữ, chẳng hạn ma thuật, bùa phép, chiêu hồn, hoặc các hình thức huyền bí khác. Nói cách chặt chẽ, ma thuật là thờ ma quỷ bằng cách van nài sự giúp đỡ của quỷ, tuân theo sự dẫn dắt của quỷ, và cố ý chọn tôn thờ quỷ thay vì tôn thờ Chúa. (Từ nguyên Hi lạp diabolos, người tàn phá.)
Diaconate
Chức phó tế, chức thầy Sáu. Là thừa tác vụ phục vụ, và là bậc thấp nhất trong các chức thánh, dưới chức linh mục và chức giám mục. (Từ nguyên Latinh diaconus; từ chữ diaknonos, người phục vụ, thầy sáu.)
Diadem
Vương miện, Vòng hoa đội đầu. Trong nghệ thuật Giáo hội, là vương miện hoặc vòng hoa đội đầu như một biểu tượng của sự thánh thiện. Nó có thể là một phần trong bức ảnh, tượng hay đặt trên đầu tượng như một sự tôn kính đặc biệt. (Từ nguyên Latinh diadema, mũ vua; từ chữ Hi Lạp diadema; từ chữ diadein, quấn chung quanh.)
Diakonia
Diakonia, việc phục vụ, tác vụ phục vụ. Là từ ngữ Hi Lạp trong Kinh thánh để chỉ sự phục vụ. Từ ngữ áp dụng cho mọi hình thức tác vụ (chính thức) hoặc sự trợ giúp (không chính thức) mà một người có thể làm cho toàn thể Giáo hội hoặc cho một cá nhân. Trong những năm gần đây, từ ngữ này được sử dụng một cách kỹ thuật hơn cho các tác vụ trong Giáo hội, mà vì đó một người được truyền chức thánh (như linh mục và phó tế), hoặc được hiến thánh (như các tu sĩ), hoặc được chỉ định (giáo dân dạy giáo lý hay phục vụ nhu cầu của người bệnh hay người nghèo khổ).
Dialectic
Biện chứng. Nói tổng quát, là sự thảo luận giữa nhiều người về các vấn đề ích lợi chung; cũng là một phương pháp lý luận hay bênh vực với xác suất và sự mạch lạc về các vấn để mở, chẳng hạn về các vấn đề mà người nói và người nghe có thể thảo luận một cách hợp pháp. Cũng là một khoa học hay nghệ thuật luận lý (Aristotle và thánh Tôma Aquinas). Là cuộc đối thoại trong một cuộc điều tra khoa học có phương pháp, hay một khoa học để tìm ra sự việc cụ thể từ bề mặt hoặc ý nghĩa đơn giản của sự vật (Plato). Là luận lý học hay nhận thức luận các dáng dấp bề ngoài (Kant). Là tiến trình phát triển tư duy và lịch sử, đi từ luận đề qua các phản đề đến sự tổng hợp hay kết quả dự báo được của cuộc xung đột (Hegel). Là sự phát triển thế lý và chính trị của vật chất, và nó tăng tốc bằng xung đột được kế hoạch hóa sẵn trong xã hội (Marx). (Từ nguyên Hi Lạp dialektikos, đối thọai.)
Dialectical Materialism
Duy vật biện chứng. Là triết học do Karl Marx (1818-83) và Friedrich Engels (1820-95) thành lập, và bị Giáo hội Công giáo lên án. Đây là triết học duy vật, bởi vì nó chủ trương rằng không những vật chất là có thực, mà còn có trước so với tâm trí cả về thời gian và trong thực tế. Như vậy tâm trí được cho là xuất hiện như là kết quả tự nhiên của vật chất, và phải được giải thích phù hợp theo đó. Không gian và thời gian được xem như là các hình thức xuất hiện của vật chất. Gọi là duy vật biện chứng, bởi vì triết thuyết này cho rằng mọi sự đang trong tiến trình tự biến đổi liên tục. Mọi sự hình thành từ các lực đối lập, mà xung đột bên trong của nó duy trì thay đổi cái mà một vật đang ở trong vật khác. Áp dụng vào xã hội, xung đột giữa người với nhau là cần thiết cho sự tiến bộ của loài người, và cần phải được cổ vũ, như là điều kiện tiên quyết cho sự trỗi dậy của xã hội vô giai cấp của chủ nghĩa Cộng sản lý tưởng.
Dialectical Theology
Thần học biện chứng. Là một hệ tư tưởng, do Karl Bath triển khai, chủ trương rằng đặc tính chính yếu của Kitô giáo là một sự đối chọi cố hữu giữa các mầu nhiệm mặc khải. Sự đối chọi chính, hoặc biện chứng, là giữa Chúa và loài người. Các đối chọi khác, chẳng hạn thời gian và vĩnh cửu, hữu hạn và vô hạn, thụ tạo và Đấng Tạo thành, bản tính và ân sủng, là phái sinh từ xung đột đầu tiên. Ngoài ra, thần học biện chứng còn cho rằng các đối chọi trên là không thể hòa giải bằng tâm trí con người. Chỉ có Chúa mới làm nhịp cầu cho sự chênh lệch tách rời chúng.
Dialogue Mass
Thánh lễ đối thoại, lễ đọc. Nguyên thủy là một Thánh lễ trong đó những người dự lễ thưa với chủ tế các lời mà người giúp lễ thường đáp với chủ tế. Thánh lễ đối thọai được Tòa thánh chuẩn y vào năm 1922. Kể từ Công đồng chung Vatican II, mọi thánh lễ có giáo hữu tham dự gọi là Thánh lễ đối thoại (đọc), bởi vì thường có nhiều lời xướng đáp giữa chủ tế và tín hữu.
Diana Of The Ephesians
Nữ thần Diana của người dân Ephesus (Ê-phê-xô), thần Artemis (Ác-tê-mi) của người Ephesus. Là nữ thần mặt trăng của người Roma, được đồng hóa với thần Artemis của người Hi lạp, và họ thờ thần như một thần trinh nữ săn bắn. Nữ thần Diana của người dân Ephesus là sự phối hợp của thần Artemis và nữ thần Ashtoreth của người Semitic, đây là thần hộ mạng cho bản năng tình dục. Một tượng lớn của thần Diana được dựng trong đền thờ huy hoàng ở Ephesus, được xem là một trong bảy kỳ quan thế giới. Đây là nguồn thu nhập đáng kể của các thợ bạc ở Ephesus vì họ đúc tượng nhỏ của thần để bán cho người hành hương. Thánh Phaolô phản đối thợ bạc Demetrius (Đê-mết-ri-ô) và các thợ đồng nghiệp của ông, khi họ cáo buộc ngài chê bai các tượng nhỏ là dị đoan. Vụ tranh cãi đạt đỉnh điểm trong một cuộc tụ tập rối lọan trong hí trường ở Ephesus, và chỉ có sự trấn an và tài thuyết phục của viên thư ký thành phố mới ngăn chặn được bạo động. Với lòng can đảm đặc trưng, thánh Phaolô nôn nóng muốn dự đại hội tòan dân này, nhưng các bạn hữu khuyên ngài đừng liều mình đến hí trường. (Cv 19:23-41).
Diaspora
Do Thái kiều, sống tản mác, tha phương, sống phát tán. Từ ngữ này dùng để chỉ tất cả những người Do Thái sống bên ngòai Palestine, và lập thành các cộng đồng riêng giữa Dân ngọai. Đa số họ sống tản mác khắp nơi do kết quả của việc bị người Assyrian và người Babylonian bắt lưu đày, sau khi những người này chiếm đóng vùng đất trong nhiều thế kỷ trước Chúa Kitô. Lúc bắt đầu thời đại Kitô giáo, có rất đông người Do Thái ở Hi Lạp, Syria, Persia, Tiểu Á, và Ý. Có thể đến 10% dân cư của Đế Quốc Roma là người Do Thái. Hầu hết họ vẫn xem Palestine là quê hương tinh thần của mình, và nhiều người thực hiện đi hành hương đến Jerusalem vào các ngày lễ lớn. Một số người cho rằng tình trạng Do Thái kiều là sự hòan thành lời cảnh báo của tiên tri Moses cho dân ngài, nếu họ không trung thành với Chúa. “ĐỨC CHÚA sẽ phân tán anh em vào giữa các dân" (Đnl 4:27; 28:64). (Từ nguyên Hi Lạp diaspora, tản mác.)
Diatessaron
Sách Diatessaron, sách “Phối hòa bốn Tin mừng”. Là cuốn sách phối hòa bốn Tin Mừng bằng tiếng Syriac, do Tatian thực hiện vào khỏang năm 170. Cuốn sách được viết theo một trình thuật liên tục, và trong thực tế là cuốn sách duy nhất được dùng tại Syria cho đến thế kỷ thứ tư.
Dicastery
Bộ Giáo triều, cơ quan. Là một trong các Thánh bộ chính thức của Tòa thánh, chẳng hạn Thánh bộ Dòng tu và các Tu hội đời, qua đó Đức Giáo hòang thực hiện việc quản trị thông thường đối với Giáo hội hòan vũ.
Dichotomism
Nhị phân thuyết. Là thuyết nhị nguyên cực đoan, xem con người như có hai phần hòan tòan tách biệt nhau, đó là linh hồn và xác. Trong cách hiểu nguyên sơ này, mọi nhận thức đều được gán cho linh hồn, và mọi thứ thể lý thì gán cho thân xác. Trong thời hiện đại, chủ thuyết Descartes là một hình thức của nhị phân thuyết, nhưng nó không là khái niệm Kinh thánh hoặc Kitô giáo, vốn nhấn mạnh sự hợp nhất của hồn và xác thành một bản thể duy nhất. (Từ nguyên Hi Lạp dicha, chia hai + temno, cắt.)
Dichotomy
Phân đôi, nhị phân pháp. Trong triết học, đây là sự phân đôi một lớp thành hai lớp phụ riêng biệt nhau hẳn, chẳng hạn lòai người được chia thành nam và nữ.
Didache (Teaching Of The Twelve Apostles)
Sách Giáo huấn, sách Didache (Giáo huấn của 12 Tông đồ). Là một cuốn chuyên khảo của thế kỷ thứ nhất, được viết trước năm 100. Cuốn sách được tái phát hiện vào năm 1833 do Bryennios, Tổng giám mục Nicomedia thuộc Chính thống giáo Hi Lạp, trong bộ sách mà từ đó vào năm 1875 ngài đã xuất bản trọn bản văn các Thư của thánh Clement I. Sách Giáo huấn được chia thành ba phần: 1. hai Đường, Đường Sống và Đường Chết; 2. thủ bản phụng vụ hướng dẫn rửa tội, ăn chay, xưng tội và Rước Lễ; 3. khảo luận về tác vụ. Việc dạy tín lý được bao hàm trong đó. Đường Sống là mến Chúa yêu người, Đường Chết là danh sách các nết hư tật xấu cần phải tránh. Có một phần hướng dẫn ngắn về phép rửa tội, quy chiếu với các thánh tông đồ, giám mục và phó tế, và bài khuyến khích để canh chừng và chuẩn bị cho việc Chúa Kitô đến lần thứ hai.
Didactics
Lý luận dạy học. Là một ngành của giáo dục tôn giáo liên quan đến việc dạy giáo lý (từ ngữ Hi lạp didaktikos, khả năng dạy). Đây là một phần hoặc một khía cạnh của huấn giáo, vốn giúp huấn luyện tâm trí để hiểu rõ hơn và nắm vững các chân lý mặc khải.