Chương trình đào tạo Tông đồ Giáo dân - Khoá I.2003

Đề tài 17

Các nhân tố & phương pháp
truyền giáo ngày nay


I. Tiếp cận vấn đề

Đề tài 16 về các đối tượng của việc truyền giáo và đề tài 17 về các nhân tố và phương pháp truyền giáo là hai đề tài cuối cùng của Khóa I, Khóa căn bản về truyền giáo. Trong đề tài 16, chúng ta đã xem xét về các đối tượng khác nhau của việc truyền giáo của Giáo hội Việt Nam. Trong đề tài 17 này, chúng ta sẽ bàn về các nhân tố mang tính quyết định trong sứ vụ truyền giáo và các phương pháp có thể dùng trong việc truyền giáo ngày hôm nay.
Vậy các anh chị hãy trao đổi với nhau về 3 câu hỏi sau:

1.1 Theo anh chị thì trong việc truyền giáo của Giáo hội nói chung và của Giáo hội Việt Nam nói riêng có những nhân tố nào có tính quyết định cho sự thành công? Làm thế nào để có được các nhân tố ấy? Trong các nhân tố thì nhân tố nào là quan trọng nhất?
1.2 Theo anh chị thì trong việc truyền giáo của Giáo hội Việt Nam ngày nay chúng ta nên sử dụng những phương pháp nào?
1.3 Trong những phương pháp ấy thì theo ý anh chị phương pháp nào đáng được ưu tiên sử dụng? Tại sao? Kết quả sẽ như thế nào?

II. Học hiểu giáo lý

Trong đề tài này, trước hết chúng ta xem xét những nhân tố mang tính quyết định trong công cuộc truyền giáo; sau đó là các hoạt động hay phương pháp truyền giáo thích hợp với hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam và cuối cùng là việc huấn luyện dự tòng, đào tạo tân tòng và xây dựng cộng đoàn Dân Chúa. Về các nội dung trên, chúng ta dựa vào cuốn LOAN BÁO TIN MỪNG của Lm Antôn, ấn hành nội bộ (2002), trang 38-54.

2.1 Ba nhân tố quyết định trong công cuộc truyền giáo.

2.1.1 Nhân tố quyết định hàng đầu: Chúa Thánh Thần.

(1) "Chúa Thánh Thần là nhân tố chính yếu trong toàn bộ sứ vụ truyền giáo của Giáo hội." Lời quả quyết này của Đức Thánh Cha đưa tới một hệ luận: nếu chỉ cậy dựa vào yếu tố nhân loại thôi thì công cuộc loan báo Tin mừng đã thất bại ngay từ trong trứng nước! Nó chẳng khác gì "dã tràng xe cát biển Đông". Đây là những lý do đưa tới hệ luận trên:
(a) Chính Chúa Thánh Thần mới là chủ thể siêu việt có đầy đủ quyền năng để thực hiện công trình cứu độ trong tâm hồn con người và trong lịch sử thế giới.
(b) Khi trao ban sứ vụ cho các tông đồ: "Như Cha đã sai Thày, Thày cũng sai anh em" , Chúa Giêsu đã ban Thánh Thần cho các ông, để các ông có khả năng rao giảng và ban ơn tha tội cho muôn dân.
(c) Chúng ta còn nhớ ngay từ giây phút đầu tiên của công cuộc khai mở Giáo hội, nhờ Chúa Thánh Thần tác động và đổi mới hoàn toàn, các tông đồ mới hội đủ khả năng để trở thành những chứng nhân và ngôn sứ hầu xây dựng Giáo hội bằng các hoạt động loan báo Tin mừng đầy khôn ngoan dũng cảm. Sự thành công trên bước đường truyền giáo của các tông đồ cũng như của các thế hệ kế thừa sau đó và cho đến hôm nay trên toàn thế giới đều là hồng ân do Chúa Thánh Thần ban tặng (sđd, trang 38-39).
(2) Với Ngài, chúng ta hành động qua:

(a) Cầu nguyện:

- Chúng ta nài xin Chúa Thánh Thần ban cho cánh đồng truyền giáo nhiều tâm hồn nhiệt thành, bén nhạy với các hoạt động tông đồ. Đó là các ơn gọi truyền giáo, như lời Đức Giêsu dạy: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về" (Mt 9,27).
- Cầu xin cho các bậc cha mẹ biết "quảng đại đóng góp đặc biệt vào sự nghiệp truyền giáo của Giáo hội bằng cách vun trồng ơn gọi truyền giáo các con trai con gái mình" (Tông huấn Đời sống Gia đình, 54).
- Cầu xin cho các bạn trẻ biết lắng nghe Lời Chúa Kitô nói với họ như nói với Phêrô và Anrê xưa: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá" (Mt 4,19), và biết đáp lại lời mời gọi của Chúa như ngôn sứ Isaia: "Con đây, lạy Chúa, con sẵn sàng, xin hãy sai con" (Is 6,8).
- Cầu cho những nơi truyền giáo vượt qua mọi khó khăn trở ngại do Satan dàn dựng, để Tin Mừng của Chúa liên tục được loan báo và được lắng nghe.
- Cầu cho những người thành tâm thiện chí được toại nguyện khi muốn kiếm tìm chân lý và số những người như thế cứ mỗi ngày một gia tăng.
- Cầu cho hết mọi người Kitô hũu ý thức sứ vụ ra đi để hăng say nhập cuộc và anh dũng thi hành sứ mệnh.

(b) Hy sinh:

Chúng ta cũng cần phải dâng lên Chúa những hy sinh tinh thần cũng như thể lý. Nên nhớ rằng Ơn Cứu độ phát xuất từ hy lễ thập giá của Đức Kitô, "chính Người là Đấng đã kêu gọi các phần tử trong Thân Thể Mầu nhiệm hãy liên kết với những đau khổ của Người nơi chính thân xác mình." (Cl 1,24). Cuộc sống hằng ngày của chúng ta đầy dẫy những đau khổ: đau khổ tinh thần như khi bị hiểu lần, bị nghi oan, bị thất bại mà chán nản, thất vọng! Đau khổ thể lý như thiếu cơm ăn áo mặc, nhà cửa rách nát, bệnh nạn tật nguyền v.v...Chúng ta hãy dâng hết những đau khổ đó cho Chúa để cầu cho các nhà truyền giáo cũng như cho hoạt động truyền giáo của các ngài. Như thế, chúng ta được kể như góp phần trực tiếp vào sứ vụ loan báo Tin Mừng. (Sđd, trang 43-45).

2.1.2 Nhân tố thứ hai: Nhân sự.

Để tạo ra Ơn Cứu độ, Chúa Giêsu đã một mình tự hiến trên cây thập giá. Nhưng để ban tặng ơn ấy cho nhân loại, Ngài đã tuyển chọn và huấn luyện 12 tông đồ để rồi sai họ đến với muôn dân. Chúa Thánh Thần đã kiện toàn công trình đào tạo các tông đồ vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Các tông đồ đã ra đi như Chúa Giêsu truyền và đã làm nên đại sự nhờ năng lực Chúa Thánh Thần ban.

Sứ vụ loan báo Tin Mừng đương nhiên là kéo dài cho đến tận thế như Đức Giêsu gợi ý: "Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20). Các tông đồ, theo đúng bài học Thày chí thánh để lại, cũng đã tuyển mộ học trò, huấn luyện rồi sai đi. Và cứ thế cho đến ngày nay, hằng hà sa số những con người thành tâm thiện chí, nhiệt tâm với sứ vụ cứu rỗi anh em, đã gia nhập hàng ngũ tông đồ. Họ thuộc đủ mọi phái tính, nam có nữ có; đủ mọi phẩm trật: giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân; đủ mọi lối sống, đủ mọi ngành nghề. Họ được Chúa Thánh Thần ban phát các đặc sủng để mựu cầu lợi ích cho Giáo hội và Chúa Giêsu linh hứng ơn gọi truyền giáo trong tâm hồn từng người. Họ đã cống hiến cuộc đời cho sứ vụ sai đi và đã góp phần mở mang Nước Chúa mỗi ngày mỗi rộng khắp (Sđd, trang 39-40).

2.1.3 Nhân tố thứ ba: Phương tiện.

Để thể hiện tinh thần bác ái Kitô giáo ngàn đời chính Công đồng Vatican II đã dạy: "Các Kitô hữu phải hoạt động và cộng tác với mọi người khác để tổ chức đúng đắn các các hoạt động kinh tế xã hội. Họ phải quan tâm đặc biệt đến việc giáo dục các thanh thiếu niên, nhi đồng bằng các loại trường học khác nhau. Ngoài ra họ còn phải tham gia vào nỗ lực của các dân tộc đang cí gắng tạo ra những hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn và củng cố hòa bình thế giới bằng cách khuất phục đói khát, dốt nát và bệnh tật... Tuy nhiên Giáo hội không chỉ tìm kiếm tiến bộ và thịnh vượng thuần vật chất, mà còn nâng cao nhân phẩm và sự hiệp nhất huynh đệ cho con người" (TG, 12).

Và để phụ họa cho ý tưởng trên, Đức Giáo hoàng và các giám mục Châu Mỹ La tinh trong lần họp thứ ba tại Puebla cũng tuyên bố: "Giáo hội trong toàn thế giới muốn là Giáo hội của những người nghèo khổ... Do đó người nghèo là đối tượng đầu tiên của việc truyền giáo. Và loan báo Tin Mừng cho họ là một dấu chỉ và bằng chứng sứ vụ của Đức Giêsu"

Xét cho cùng những lời dạy trên đây đã khơi nguồn từ gương mẫu của Đức Giêsu, Đấng, sau khi dạy dân chúng về Tin Mừng Nước Trời, đã cho họ bánh ăn và chữa lành mọi bệnh nạn tật nguyền. Hành động như thế là Chúa Giêsu đã chăm lo cho cả "con người toàn vẹn" , tức bao gồm cả hai phần vật chất lẫn tâm linh.

Trong bối cảnh đất nước Việt Nam chúng ta hôm nay, số những con người nghèo khổ quả thực hết sức đông đảo! Người truyền giáo đến với họ...dần dà sẽ nẩy sinh tâm tình của Chúa Giêsu xưa khi trực diện với đám dân nghèo: "...thấy dân chúng đông đảo, Người chạnh lòng thương xót họ, vì họ như chiên không có người chăn dắt. Và Ngài bắt đầu dạy họ nhiều điều… Ngài cầm 5 chiếc bánh và 2 con cá ... trao cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng..." (Mc 6, 34-44). Vậy, chúng ta có thể kết luận: Truyền giáo là tận tình giúp đỡ những người nghèo khổ, để, ở đời này họ có được một cuộc sống xứng phẩm giá con người và đời sau được đạt tới Ơn Cứu độ.

Thực ra trong tình hình Đất Nước ta hiện nay việc trực tiếp tham gia vào các hoạt động bác ái xã hội của các tôn giáo vẫn chưa được nhà cầm quyền chấp nhận. Tuy nhiên, có những địa phương, chúng ta vẫn có thể hợp tác. Và ngay tại những chỗ khó khăn người truyền giáo vẫn có thể len lỏi và tìm ra những phương thức để sự giúp đỡ vật chất có thể chắc chắn tới tay dân nghèo. Điều cần là làm thế nào để những người truyền giáo này có được PHƯƠNG TIỆN trong tay mà phân phát! (Sđd, trang 40-42).

Về các phương tiện phục vụ cho việc truyền giáo ngày nay, chúng ta cũng không thể xem thường các phương tiện truyền thông đại chúng như báo chí, sách vở, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, internet... là các phương tiện càng ngày càng phổ biến trong thế giới ngày nay.

2.2 Các hoạt động và đồng thời cũng là các phương pháp truyền giáo thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay.

Theo Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, sứ vụ loan báo Tin Mừng nhắm tới cả 3 đối tượng: người chưa được nghe biết Chúa, người đã rửa tội nhưng bỏ Giáo hội ra đi và người đã rửa tội và đang sống đức tin.

(1) Với đối tượng là những người chưa nghe biết Chúa, sứ vụ truyền giáo thường lưu ý đến những hoạt động - và cũng là những phương pháp- sau đây:

(a) Thăm viếng:

Thăm viếng là hoạt động (phương pháp) truyền giáo thường thu được rất nhiều thành quả. Thăm viếng là chiếc cầu nối. Nó đưa người ta xích lại gần nhau, quen nhau, biết nhau, hiểu nhau, thông cảm với nhau và từ từ đi đến thân thương yêu mến. Dĩ nhiên không phải chỉ một thời gian ngắn là có thể đi tới thân tình ngay được. Vì thế cần phải kiên trì thăm viếng và kiên trì xây dựng cho nhau qua rất nhiều lần thăm viếng.

Đối với “sứ vụ đến với muôn dân” hoạt động thăm viếng đòi phải kinh qua nhiều thời gian hơn. Phải tiêu mòn nhiều sức lực và chi phí hơn vì phải đi xa, đi lâu và xử dụng nhiều phương tiện hơn. Nhưng thế nào chăng nữa, để truyền giáo, chúng ta không thể làm khác và không thể không làm. Thật vậy, có thăm viếng mới có tiếp cận, có tiếp cận mới có trao đổi, có trao đổi mới có hiểu biết và có hiểu biết, với ơn Chúa nữa, mới có đón nhận. Thăm viếng là dấu chỉ của tình thương. Tình thương này trước hết phải được chứng minh từ "con người có đạo", nhất là con người truyền giáo. Chính "con người có đạo, con người truyền giáo" là con đường tình thương dẫn bà con lương dân đến với Chúa, Đấng là nguồn mạch tình thương. Hãy nhiệt thành thăm viếng để chứng tỏ chúng ta sống đức ái Kitô giáo thật sự (Sđd, trang 45-46).

(b) Người người kết thân:

Phương thức truyền giáo này được thực hiện như sau: Chọn lấy một người bạn lương dân (nam với nam, nữ với nữ, trừ trường hợp lập gia đình) Kết nghĩa anh em hay chị em với người ấy một cách chân tình. Hai người gắn bó với nhau như ruột thịt, giúp đỡ nhau tận tình vật chất cũng như tinh thần, đến nỗi người bạn có thể có một chỗ đứng thân thương trong gia đình như người con trong nhà. Hằng ngày cầu nguyện cho bạn và đôi khi vào những dịp Lễ, Tết...mời bạn đi dự các nghi thức đạo với mình. Với ơn Chúa soi sáng thúc đẩy, biết đâu một ngày nào đó, người bạn lại chẳng "đón nhận" tình thương của Chúa để trở thành Kitô hữu thực sự (Sđd, trang 46).

(c) Nhà nhà kết thân:

Phương thức này giống giống phương thức trên. Khác chăng là giữa hai tập thể có nhiều cá thể hơn. Phương thức kết thân này rất thịnh hành tại Giáo hội Đại Hàn. Chính nhờ phương thức kết thân này mà chỉ trong 3 thập niên 1960-1990, Giáo hội Đại Hàn đã đem về cho Chúa cả triệu linh hồn. Dĩ nhiên kết quả càng lớn thì công sức càng to đúng như ý định từ muôn đời của Chúa (Sđd, trang 46-47).

(d) Phát triển:

Tại những vùng sâu vùng xa miền đồng bằng hay những nơi núi rừng heo hút, đồng bào ta còn nghèo khổ nhếch nhác lắm! Về tinh thần họ mù chữ, dốt nát! Về vật chất: cơm không đủ ăn, áo không có mặc, nước thì ô nhiễm, phương tiện làm ăn thì thô sơ, cầu thì cầu khỉ, lối đi gập ghềnh mùa nắng mà lầy lội mùa mưa! Nhìn về tương lai, quả thật, chưa thấy cơ hội nào có thể giúp họ thoát khỏi cảnh triền miên cơ cực đó. Chúng ta, vì muốn đem lại cho anh em lương dân một chứng từ đích thực về Chúa Kitô, phải tích cực tham gia bằng đóng góp sức người sức của, tạo ra cho đồng bào "những hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn bằng cách khuất phục đói khát, dốt nát và bệnh tật" (TG, 12). Như thế chúng ta phải hợp tác với chính bà con để xây dựng những lớp học tình thương, giúp phương tiện cho các cháu thanh thiếu niên nhi đồng đến trường; đóng nhiều giếng nước sạch; làm vô số cầu bê tông; lót đan, trải đá hàng trăm mét đường lầy lội... Đấy là chưa nói tới những khoản trợ giúp thuốc men cho người bệnh nặng, gạo thóc cho người đói rách. Quả thật, người ta dễ bình tâm khi không thấy những cảnh đói nghèo nheo nhóc. Nhưng thấy rồi thì không thể không xót xa, trái lại sẽ được đức ái Chúa Kitô thúc bách để dấn thân giúp đỡ những người anh em xấu số hầu cứu họ cả xác lẫn hồn! Dĩ nhiên những hoạt động phát triển này cần phải được yểm trợ bằng phương tiện vật chất. Vậy mỗi người, tùy theo khả năng, sức khỏe, thời giờ và tiền của Chúa ban, hãy nhiệt tâm đóng góp. Tuy "một cây làm chẳng nên non", nhưng "ba cây chụm lại ắt nên hòn núi cao" (Sđd, trang 47-48).

(2) Với đối tượng là những người đã tin Đức Giêsu Kitô và đã nhận bí tích rửa tội nhưng đã đánh mất niềm tin, rời bỏ Giáo hội, sống như người lương dân thì ngoài các hoạt động hay phương pháp truyền giáo kể trên, chúng ta đặc biệt quan tâm đến các hoạt động tái truyền giáo, tức rao giảng lại Tin Mừng, dạy lại giáo lý cho họ khi họ tán thành.

(3) Với đối tượng là những người tin Đức Giêsu Kitô, đã được rửa tội và đang sống đức tin cậy mến của Kitô hữu thì ngoài các hoạt động hay phương pháp truyền giáo kể trên, chúng ta đặc biệt quan tâm đến các hoạt động mục vụ (giảng dạy, các khóa huấn luyện, các sinh hoạt hội đoàn hay chuyên đề) để củng cố và tăng cường đức tin, cậy, mến nơi họ.

2.3 Huấn luyện dự tòng, đào tạo tân tòng và xây dựng cộng đoàn Dân Chúa.

Huấn luyện dự tòng, đào tạo tân tòng...giúp họ trở nên nhựng Kitô hữu thuần thành là công tác hàng đầu Giáo hội hằng lưu ý: "Những người nhờ Giáo hội được Thiên Chúa ban ơn tin Chúa Kitô, phải được nhận vào lớp dự tòng bằng những lễ nghi phụng vụ; lớp dự tòng này không phải chỉ trình bày tín lý và các giới răn, nhưng là huấn luyện một đời sống Kitô hữu đầy đủ và là thời gian tập sự được kéo dài thích đáng, để nhờ đó môn đệ liên kết với Chúa Kitô là Thày mình. Vậy các dự tòng phải được khai tâm một cách thích hợp về mầu nhiệm cứu rỗi, tập sống theo Phúc âm và qua các nghi lễ thánh được cử hành theo từng giai đoạn liên tục, họ được đưa vào đời sống đức tin, phụng vụ và bác ái của dân Chúa.

Rồi khi đã chịu các Bí tích gia nhập Kitô giáo, họ được giải thoát khỏi quyền lực tối tăm, cùng chết, cùng được an táng và sống lại với Chúa Kitô. Họ lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho họ thành nghĩa tử, và cùng với toàn thể Dân Chúa họ cử hành lễ kính nhớ việc Chúa chịu chết và sống lại
" (TG, 14).

Phân tích lời Công đồng dạy trên đây, việc huấn luyện dự và tân tòng sẽ trải qua những giai đoạn như sau:

(a) Giai đoạn dự tòng:

Trong giai đoạn này người dự tòng được nhận vào các lớp giáo lý để học hỏi những vấn đề liên quan tới tín lý và luân lý của đạo, tức là khai tâm về mầu nhiệm cứu rỗi, được hướng dẫn để sống cuộc sống Kitô hữu, tức là thực thi Phúc âm. Đồng thời tham dự các nghi lễ thánh, tức là "được đưa vào đời sống đức tin, phụng vụ và bác ái của Dân Chúa"

Phải nói đây là giai đoạn khó khăn nhất đối với cả hai phía: người hướng dẫn và người dự tòng. Khó khăn đối với người hướng dẫn là vận dụng thế nào, cả lý thuyết lẫn phương pháp sư phạm, hầu thuyết phục được người thụ giáo. Có những dự tòng, vào thời gian ban đầu chỉ có ý đi học để tìm hiểu. Sau năm bẩy lần dự lớp, họ có thể quyết định theo đuổi đến cùng, do thấy những gì đạo dạy "có lý”quá. Hay ngược lại, nghỉ luôn, vì cảm thấy chưa được thuyết phục về giáo lý cũng như tình cảm!

Thực ra, đối với các dự tòng, nhất là ở nông thôn, vùng sâu vùng xa, trình độ học vấn chẳng là bao, nhưng lại khá bén nhạy về mặt tôn giáo. Cho nên chân lý đức tin Công giáo vẫn là thế, nhưng người hướng dẫn biết vận dụng khoa tâm lý, phương pháp sư phạm, biết dùng những từ ngữ vừa tầm hiểu biết của học viên….mà trình bày…. thì mới hy vọng thuyết phục được người nghe.

Khó khăn về phía học viên nhiều khi to lớn không ngờ! Những trở ngại đó có thể có thể phát xuất từ:
  • Truyền thống tôn giáo gia đình,
  • Thời giờ làm ăn sinh sống,
  • Tâm trạng nghèo "đi đạo vì gạo vì tiền".
Để giải quyết vấn đề này, Thánh Công đồng dạy: "...Phải cứu xét những động lực tòng giáo, và nếu cần, phải thanh luyện những động lực đó nữa" (TG, 13). Thực tế, đối với khó khăn về "truyền thống tôn giáo gia đình" và khó khăn về thời gian, người truyền giáo cần vận dụng ơn Chúa và sự khôn ngoan sáng suốt của mình để trình bày, dẫn giải, động viên. Có những vấn đề chưa cần nói ngay hay làm ngay (ví dụ bàn thờ chẳng hạn) thì chưa cần nói, cần làm. Tới lúc nào đó, khi người dự tòng đã xác tín đạo Chúa, họ sẽ tự động làm hay yêu cầu mình làm. Riêng cái khó thứ ba: đi đạo vì gạo vì tiền, chúng ta không khước từ những đối tượng này mà cứ tiếp rước vui vẻ, rồi từ từ, như Công đồng dạy "thanh luyện những động lực đó" thôi. Kinh nghiệm cho thấy, nhiều người lúc đầu xin tòng giáo là để lợi dụng. Nhưng khi đã thấm nhuần giáo lý, họ trở nên siêng năng, sốt sáng với một đức tin thật vững vàng. Đúng là "tất cả đều nhờ bởi ơn Chúa".

Để được như thế, chúng ta cần lưu ý đến thời gian dạy và học giáo lý dự tòng. Không nên vì bất cứ lý do gì mà hấp tấp vội vàng. Nguyên tắc là: càng dạy lâu càng tốt, càng học lâu càng thấm nhuần. Kinh nghiệm cho thấy, thời gian học giáo lý dự tòng kéo dài từ 8 đến 12 tháng là tốt. Như thế người dự tòng mới có thể tạm biết đầy đủ những điều cần thiết để lãnh Bí tích Rửa tội (Sđd, trang 49-52).

b) Thời hậu Rửa tội:

Thực sự rửa tội thì dễ, nhưng làm thế nào để người tân tòng luôn tin vững và sống đúng tinh thần Phúc âm, nhờ đó phần rỗi trở nên niềm hy vọng chắc chắn.... đó mới là chuyện khó. Quả thực, đích chúng ta nhắm khirửa tội cho dự tòng là chính sự cứu rỗi của họ. Do đó, nếu chưa thấy "chắc ăn" hay nói cách khác, đức tin của họ còn non yếu vì thời gian học giáo lý và tập sống đạo còn quá ngắn, chúng ta cần “can đảm” tạm hoãn việc rửa tội cho đến khi tiêu chuẩn hiểu biết về đạo được tạm dủ và đức tin (theo sự nhận xét có giới hạn của con người) có vẻ khả quan.

Sau khi rửa tội, ngoài việc bồi dưỡng đức tin theo hình thức huấn dụ trước sau thánh lễ, nhất là qua các bài giảng sau bài Tin Mừng, chương trình giáo lý đối với tân tòng vẫn phải được liên tục duy trì ít là từ 6 tháng đến một năm. Chương trình này, không coi nhẹ phần lý thuyết, nhưng đặt nặng phần thực hành, cụ thể như: cầu nguyện, lần chuỗi, sống bác ái, loan báo Tin Mừng...

Công tác cứu rỗi linh hồn người ta, quả thực, nhiêu khê và vất vả lắm thay! (Sđd, trang 52-53).

c) Thành lập Cộng đoàn Dân Chúa:

"Các nhà truyền giáo... phải gây dựng những cộng đoàn tín hữu để họ có thể thi hành những chức vụ đã được Chúa trao cho họ: đó là chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế. Nhờ hiến tế Thánh Thể, họ được cùng với Chúa Kitô vươn đến Chúa Cha; được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa; họ làm chứng về Chúa Kitô, cùng dấn bước trong tình bác ái và được hun đúc trong tinh thần tông đồ" (TG, 15). Qua lời dạy của Công đồng, người truyền giáo phải lưu ý đến một hoạt động quan trọng khác nữa là: thành lập Cộng đoàn Dân Chúa. Tất nhiên, đây là tại những nơi trước kia chưa từng có nhà nguyện, nhà thờ; chưa hề có linh mục, tu sĩ hay giáo dân tông đồ lưu ngụ. Nay, nhờ ơn Chúa đã có hàng trăm người đang học giáo lý dự tòng và lòng người địa phương đang hướng về Chúa như hạn hán mong mưa...thì việc qui tụ họ lại thành cộng đoàn Dân Chúa để dần dần biến thành họ đạo, thành giáo xứ... là điều không thể không nghĩ tới.

Để chuẩn bị cho hướng đó, ngay từ thời dự tòng, ngoài việc huấn luyện bà con mặt đức tin cả lý thuyết lẫn thực hành, chúng ta còn phải tổ chức cho họ những thánh lễ riêng, trong đó, chính họ, theo tuổi tác và vị trí, đảm nhận việc giúp lễ, đọc sách thánh, quyên tiền, dâng của lễ, ca hát cộng đồng và ca đoàn v.v...Từ các công tác phụng vụ này, sẽ dần dần xuất hiện những tâm hồn vừa có khả năng, vừa sốt sáng nhiệt tình. Đó là những người sẽ được chọn để đóng những vai trò lãnh đạo hay đảm nhận những công tác chuyên môn, khi giáo điểm của họ có nhà nguyện hay nhà thờ và được cả hai phía đạo đời chính thức công nhận là Giáo họ hay Giáo xứ. "Chúa sẽ làm những việc trọng đại và Danh Người là thánh" (Sđd, trang 53-54).


IV. Trao đổi chia sẻ
4.1 Làm thế nào để giáo dân chúng ta hiểu được tầm quan trọng của Chúa Thánh Thần, của nhân sự và phương tiện là những nhân tố mang tính quyết định trong công cuộc truyền giáo?
4.2 Muốn anh chị em lương dân đón nhận Đức Giêsu và Tin Mừng của Người, chúng ta phải làm gì để chuẩn bị tâm hồn họ?
4.3 Khi đã có người muốn tìm hiểu và muốn học đạo, chúng ta phải làm gì để giúp đỡ họ?
4.4 Tại sao thời gian tìm hiểu, học hỏi đạo không được quá ngắn? Và trong thời gian ấy người dự tòng cần nắm bắt những gì?
4.5 Sau khi đã được rửa tội, anh chị em tân tòng cần được giúp đỡ như thế nào để họ thực sự hiểu và sống theo đạo?

V. Cầu nguyện truyền giáo

5.1 Cầu nguyện cho cánh đồng truyền giáo của Giáo hội Việt Nam ngày nay: Miền Bắc, Miền Trung và Cao Nguyên, Miền Nam và Thành phố này.
5.2 Cầu nguyện cho các nhà truyền giáo của Giáo hội Việt Nam: các Giám mục và các linh mục, các tu sĩ và giáo dân nam nữ đang phục vụ công cuộc rao giảng Tin Mừng cho đồng bào các nơi.
5.3 Cầu nguyện cho công việc truyền giáo của giáo xứ, cho linh mục chánh xứ, cho Hội đồng mục vụ Giáo xứ, cho Ban Điều hành các Giáo họ và các Hội đoàn, cho các ủy viên truyền giáo, cho các hội viên Legio Mariae và cho các giáo lý viên của giáo xứ.

VI. Quyết tâm cá nhân và cộng đoàn

6.1 Dành nhiều thời gian thăm viếng, tiếp cận, trao đổi với những người không Công giáo, nhất là những người ở gần nhà mình và những người nhờ mình giúp việc này việc khác.
6.2 Quan tâm đến nhu cầu của những người, những gia đình không Công giáo sống gần nhà mình. Cầu nguyện cho họ và giúp đỡ họ khi có dịp.

Ngày 07 tháng 04 năm 2003