Giải Viết Văn Đường Trường 2014: Bản Tin 05
Thưa quý độc giả và quý tác giả,
Giải Viết Văn Đường Trường do Ban mục vụ Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn khởi xướng. Nó muốn gợi lên nơi bạn trẻ Công Giáo ý định thử viết một truyện ngắn có nội dung Kitô giáo, rồi từ đó dần dần sẽ khám phá ra mình có thể trau dồi khả năng này để phụng sự Thiên Chúa và Giáo Hội.
Chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu 6 truyện dự thi mới. Xin mời quý độc giả cùng theo dõi, đánh giá và tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Quý độc giả có thể gửi phiếu bình chọn ngay sau từng đợt bài được giới thiệu. Khi đọc các truyện ở các đợt tiếp theo, nếu thay đổi ý kiến, có thể gửi phiếu bình chọn mới. Chúng tôi sẽ tính theo phiếu gởi sau cùng của mỗi người.
Ước mong quý độc giả khắp nơi tích cực vận động để có thêm nhiều tác giả hưởng ứng và tiếp tục tham gia cuộc thi.
Xin mời xem Bản Thể Lệ Giải Viết Văn Đường Trường đính kèm cuối bản tin này.
Nhân đây Ban Tổ chức xin thông báo: Để tạo điều kiện cho các tác giả có thời gian hoàn thiện bản thảo dự thi, thời hạn nhận bài của giải 2014 được gia hạn kéo dài thêm một tháng, hạn cuối nhận bài đến hết ngày 31-3-2014.
Xin trân trọng giới thiệu 6 tác phẩm dự thi mới được chọn qua vòng sơ tuyển. Một số bài không lọt qua vòng loại do chưa phải là truyện ngắn (chỉ mang dạng chia sẻ tâm tình, tùy bút hoặc kể chuyện), do kết cấu lủng củng, chưa thống nhất ý tưởng, hoặc do lấy lại câu chuyện từ một truyện nào đó (phóng tác chứ không phải là sáng tác). Nếu quý độc giả phát hiện bài nào chỉ là phóng tác từ một tác phẩm khác đã công bố, xin vui lòng cho Ban Tổ chức được biết.
Xin chân thành cám ơn các trang truyền thông Công Giáo đã và đang hỗ trợ truyền bá chương trình này, cám ơn quý tác giả đã gửi bài tham gia và cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi cuộc thi. Nguyện xin Thiên Chúa giàu lòng thương xót chúc lành cho tất cả chúng ta.
Qui Nhơn, ngày 15-03-2014
Thay lời Ban Tổ chức
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
BÀI DỰ THI
Mã số: 14-025
CHỮ HIẾU
-Khổ quá, khổ quá.
Bà lão vẫn thường hay than thở như thế. Căn phòng chật chội nhuốm màu vàng lờ nhờ của bóng điện. Suốt ngày trong cái không gian o bế đến ngộp thở ấy là tiếng khò khè, gắt gỏng, kêu ca của một bà lão đã ngoài tám mươi tuổi. Đãng trí, mắt kèm nhèm, lại thêm chứng đau lưng của tuổi già, nên bà hay cô đơn lắm. Cứ chiều chiều, bà lại chống gậy lang thang ra công viên, rồi ngồi thẫn thờ ngẫm ngợi vào quá khứ, về mối tình đầu, về những ngày tháng đẹp tươi nhất.
Già rồi nhưng vẫn hay khóc. Bà dễ tủi thân lắm. Trái tim bà vẫn cả tin và dễ tổn thương cho tới tận bây giờ. Mỗi khi bị con cháu trách mắng về tính hay giận, hay quấy là bà lại lủi thủi tìm vào góc phòng, ôm mặt khóc. Bà có muốn thế đâu.
Cái tính nhõng nhẽo, hay quấy của bà có từ hồi nhỏ, nhưng được chiều chuộng nhất là cái hồi bà yêu. Thời son trẻ ngập tràn sắc đẹp ấy xoẹt qua đời bà như một ngôi sao băng trong bầu trời đêm quang đãng. Từ ngày nhỏ, bà luôn ao ước được nhìn thấy sao Chổi hai lần trong đời. Bởi sao băng mong manh quá, ngắn ngủi quá, không bõ xem. Bà muốn nhìn thấy sao Chổi một lần nữa, ngôi sao Chổi kì vĩ, đầy hư ảo mà bà đã coi từ hồi bà còn nhỏ.
Tiếng dế kêu đêm thật não nùng và lạc lõng trong công viên. Xa xa phía bờ hồ, thỉnh thoảng có những chiếc ô tô lao vút đi, rồi lại tiếng dế kêu văng vẳng thấu đến từng cánh hoa kẽ lá. Những con dế như thi nhau tấu lên bản nhạc réo rắt. Màn đêm như đè nặng xuống mảnh đất này. Tiếng dế như xé đêm ra từng mảnh, từng sợi. Tiếng dế le lắt, tiếng dế quay quắt, tiếng dế thao thiết xiết bao.
Từ lúc nào, bà luôn coi dế là bạn. Những người bạn tí hon ấy như các nhạc công trình diễn miệt mài không lấy tiền thù lao vậy. Bà vẫn hay lững chững chống gậy vào thăm thú công viên, cốt cũng là để được nghe tiếng dế. Tuổi già cũng không nhiều thú vui. Nhiều cảm giác vẫn khiến bà nhớ về hồi trẻ đẹp. Mỗi lần như thế, bà chạnh buồn. Cô đơn, cô đơn, cô đơn, điều ấy đáng sợ nhưng lại như những hạt bụi luôn vây bủa lấy bà. Nhiều khi bà muốn rũ bỏ cảm giác ấy đi mà không được, bà lại lặng lẽ tìm đến làm bầu bạn với tiếng dế, với bóng đêm, với sao trời. Dần dà rồi cũng quen, bà tự biết chẳng mấy ai thích người già, nên mọi buồn khổ lại tự âm thầm chịu đựng một mình.
Có lần, con trai bà bảo: Mẹ già rồi, đừng ra ngoài nữa, nhỡ cảm gió ra đấy thì làm sao. Bà bảo: Cứ để ta đi lại cho nó khuây khỏa. Nó bảo: thôi mẹ ở nhà cho lành, không thì lại khổ con khổ cháu. Bà im lặng, đóng cửa vào căn phòng kín gió tù túng. Bà bảo cái phòng như cái chuồng nhốt người vậy, khó chịu lắm. Con dâu bà bảo: Mẹ khó tính lắm, ai mà chiều được. Bà kêu: Giê Su Maria, sao già lại nhục thế này, người ta cầu chúc cho nhau sống lâu trăm tuổi làm gì thế không biết.
Rồi bà lại tự đấm vào phía lưng mình. Những cơn đau lưng kéo dài từ ngày này sang ngày khác khiến bà hay ri rỉ nước mắt. Cơn đau còn như lây vậy, đau lưng rồi đau lên vai,lên gáy, lên đầu, đau tỏa xuống các tay chân. Trông bà lấy bấy, bủn rủn là thế, nhưng sức bà cũng đã cố gắng hết sức để gượng gạo đi rồi. Chứ thực ra bà chỉ muốn nằm bẹp một chỗ thôi, lúc nào cũng cảm thấy trong người bí bách, xương cốt rão ra, chỉ còn chút tàn lực của tuổi già. Đôi lúc bà vẫn tự quở: Sao ta dai chết thế? Bà cũng hay nghĩ về tuổi thơ. Lúc còn nhỏ, bà luôn mong ước một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn, nhưng càng sống lâu, bà càng thấy đời nhiều khốn nạn hơn. Giờ ai cũng bảo bà lẩm cẩm, dạy con cháu khác người. Bà bảo: Đôi khi trong cuộc sống người tốt sống cạnh người tốt không tốt. Người ta bảo bà dở hơi. Bà lại bảo: Người tốt phải ở gần người xấu sể cảm hóa người xấu, không chẳng bao giờ người xấu có thể hoàn lương được cả. Người ta bảo bà chập mạch. Ai lại cho con cháu đi chơi với đám bạn lêu lổng, hư hỏng đâu. Bà cười mỏm mẻm: Rốt cuộc chẳng ai hiểu được già này.
Lớp trẻ ở đây mấy ai biết bà từng là cô gái hát quan họ đầy quyến rũ, mê hoặc ngày xưa. Làng trên xóm dưới ùn ùn kéo về xem quan họ mỗi khi làng bà tổ chức. Cứ tới lượt bà hát là mọi người như lặng đi, giọng hát mê hồn ấy đã thấm cả vào một thế hệ yêu quan họ trong khu vực này, ấy thế mà…
Bà vẫn đi dạo hàng ngày, dành nhiều thời giờ để suy nghĩ về tuổi trẻ, về những khoảng lãng mạn thời con gái. Cảm giác ấy, cái cảm giác được nhiều người tôn trọng, săn đón, ngưỡng mộ rất sung sướng. Bà mơ màng dựa vào ghế đá ngoảnh ra mặt nước hồ lãng đãng ánh hoàng hôn. Khóe mắt bà đã ri rỉ những ngấn nước mắt lòa nhòa. Anh nắng chiều tàn làm óng ánh lên những giọt nước nhỏ nhoi ấy. Cảm giác cô đơn quấn xoắn lấy bà.
Có lẽ ta sắp bị đuổi ra đường mất. Bà tự nhủ. Con dâu ngày càng hay cáu giận, mắng mỏ, còn con trai thì bận bịu tối ngày, chằng còn quan tâm bà nữa. Hôm trước, con dâu bà bảo: Mẹ sống ở nhà này như người thừa ấy. Có lần khác nó lại bảo: Mẹ bẩn lắm, hôi hơn con khỉ rồi, cả tháng rồi chưa tắm. Thì bà cũng nghe câu được câu chăng, mỗi lần như thế bà im lặng. Tuổi này giờ gắng gượng mà đi được là tốt rồi, mấy ai giữ được cho thân thể luôn thơm tho chứ? Giá như, giá như… cái thời son trẻ của bà đã lùi lại quá xa, sẽ chẳng bao giờ bà có thể quay lại được thời đó. Mỗi lần bà muốn quay lại, con cái lại mắng bà nhõng nhẽo, trẻ con, làm khổ con cháu ai mà chiều được.
Một buổi sáng cuối mùa đông năm ấy, cô con dâu hét toáng lên: Mẹ ra khỏi nhà đi, ỉa đái gì mà tung tóe hết ra phòng thế này, khổ quá. Bà vừa đi vệ sinh vào cái bô, không biết túng tấng thế nào mà cái bô bị úp ngược, bà cứ khều khều những mãi không lật lên được. Cô con dâu nhìn cảnh ấy nên không kìm lại được, lại thốt lên: Bà chết đi thì hơn, sống chỉ làm người khác khổ.
Bà ngờ ngệch vớ lấy cái gậy, thập thùi bước đi, bỗng ngã dúi xuống, mặt bà úp vào cái bô rồi trượt xuống nền đất. Mùi thối sặc sụa như oạc ra từ bể phốt. Quần áo, mặt mũi bà nhoe nhoét phân. Bà nằm như một con mèo già sắp chết. Luống cuống quá, bà lại bò ra cái chỗ vòi nước. Cô con dâu đóng sầm cửa lại, ậm ọe hồi lâu.
Năm hôm sau, người ta thấy một bà cụ già nằm bất động ở cổng ngôi nhà thờ một giáo xứ gần đó, người bà cứng đờ, lạnh toát. Mấy giáo dân đi lễ về, nhìn thấy liền khênh bà về nhà sơ cứu, nhưng dường như đã quá muộn. Con trai, con dâu bà tìm đến, lu loa, gào khản cả tiếng như tranh nhau:
-Ối mẹ ơi! Sao mẹ lại bỏ nhà mà đi.
- Mẹ ơi là mẹ! con là kẻ bất hiếu.
- Mẹ ơi! Sao mẹ lại chết đường chết chợ thế này, sao phút cuối không ở bên chúng con.
- Mẹ ơi! Chúng con hưa sẽ chăm chỉ làm ăn, sẽ vâng nghe lời mẹ lúc còn sống, lo lắng cho mẹ mồ yên mả đẹp.
Những lời có cánh trong đau buồn như vút tận trời xanh. Hàng trăm lời hứa hẹn, khóc nấc của cặp vợ chồng cũng khiến họ hàng khóc nấc theo. Dân làng không ngờ bà lại có con dâu ngoan hiền, thương mẹ đến thế, người con trai có hiếu đến thế…
Chiếc quan tài đã sang ngày thứ hai, phía đầu quan tài vẫn có một mặt để ai vào phúng viếng có thể nhìn thấy mặt bà lần cuối. Người con dâu oặt oẹo, tóc xù ra vì đã khóc ròng suốt từ lúc nhận được tin dữ.
Đám tang bà đông. Cả làng đưa tiễn bà vào nhà thờ để làm lễ đưa chân cầu nguyện cho linh hồn bà sớm được hưởng phúc thiên đàng. Vị linh mục đang oang oang giảng về những đóng góp quan họ trước đây của người quá cố, bỗng đánh rơi kính vì một điềm lạ lùng. Cả nhà thờ nhỏm dậy, nháo nhào chạy xúm vào một chỗ. Bà lão đã ngồi nhỏm dậy, nắp quan tài kênh sang một bên. Người ta đã quên đóng đinh nắp áo quan. Tiếng trẻ con khóc thét vì sợ. Ai cũng ngạc nhiên vì sự việc lạ lùng. Nhiều người tin Chúa đã làm phép lạ ngay giữa nhà thờ. Có kẻ xầm xì: Suýt nữa thì chôn sống bà lão.
Bà ngã ra nền nhà thờ, ngước lên nhìn gian Cung thánh, làm dấu liên hồi, miệng lắp bắp, mặt tái mét.
Cả nhà thờ vòng trong vòng ngoài những người, không còn ai khóc nữa. Quả là một sự lạ cho toàn bộ con chiên của Chúa nơi đây. Bà lão vẫn chưa nói được. Người ta đưa bà ra cấp cứu. Cái tin người chết sống lại nhanh chóng được lan truyền, bà bỗng dưng nổi tiếng, được nhiều người phỏng vấn.
Rồi cũng nhạt dần. Không khí trong gia đình lại trở lại như xưa. Người con dâu vẫn tiếp tục chì chiết mẹ chồng. Người con trai vẫn chơi bời nhậu nhẹt tới khuya khoắt mới về nhà. Có ngày họ chẳng cả nhìn hay hỏi thăm bà lấy một tiếng. Ngày ngày trôi qua trong quạnh vắng, bà rất nhớ tiếng dế, nhớ những kí ức tuổi thơ. Bà đã bị liệt một nửa người. Mấy ngày liền, khi không còn nghe tiếng mẹ gắt gỏng, rên hừ hừ nữa, đôi vợ chồng mới khẽ khàng đẩy cửa vào. Một cảnh tượng đầy ái ngại trong căn phòng đã đập vào mắt đôi vợ chồng đã trung niên. Chẳng là, họ đã trải vải mưa xuống dưới chiếu của bà, và để sẵn đồ ăn, sữa, hoa quả hai ngày nay cho bà cụ. Giờ thì nước tiểu và phân lấm lem xuống chiếu, chảy cả lên mái tóc rối lòa xòa của bà. Mắt bà nhắm nghiền, ruồi tranh nhau bâu lên mặt, khóe mắt bà vẫn có đường nước bé xíu mờ mờ chảy xuống chỗ nước tiểu rỉ loang khắp chiếu. Trong im lặng, đôi vợ chồng ngán ngẩm nhìn nhau. Hai ngày tiếp theo bà cũng không ăn được gì, ai hỏi gì bà cũng không nói được. Họ hàng lại xúm xít xung quanh. Lại hỏi thăm, bàn tán, rồi ra về trong tâm lí nặng nề. đến một ngày cuối tuần, khi tất cả mọi người đang lo lắng nhìn khuôn mặt đã hết thần sắc, quầng mắt đen sì, môi thụt hẳn vào trong của bà, thì người ta đã được nghe câu nói cuối cùng của bà. Sau một loạt câu hỏi không có tín hiệu trả lời:
-Bà uống sữa nhé
-Bà đi tiểu nhé
- Thay quần áo cho bà nhé
…
Rồi đến câu:
-Xức dầu cho bà nhé. Bỗng như có một buộc vào cổ áo kéo bà lên vậy, bà hơi nhích, khẽ rên lên:
-Ừ, tạ ơn Chúa.
Khi mặc áo phép, và chịu phép sức dầu, ăn năn về những việc làm hồi còn sống, bà làm dấu thánh giá, hôn tượng Chúa Giê- Su, rồi thở hắt lên một cái thật mạnh. Bà đã ra đi mãi mãi. Đám tang bà lần này, rất ít tiếng khóc. Con cháu bà cũng chẳng đông, dù đã bao lần khi còn sống bà dặn dò các con cháu bà hãy sinh sôi thật nhiều. Đêm đó, những ngôi sao băng rơi nhiều như để chào đón một linh hồn thánh thiện đã về trời. Tiếng dế trong nghĩa trang cũng ngân lên buồn bã, chỉ vắng ánh sao Chổi mà thôi.
Mã số: 14-026
BÁC SĨ ĐỪNG
-Tặng bạn tôi, một người con ưu tú của Giáo Hội, anh Paulus Lê Sơn. Xin được cúi đầu trước các thiên thần bé bỏng không được chào đời.-
Câu chuyện ấy xảy ra vào một ngày cuối thu.
Đừng là một bác sĩ giỏi. Ngay từ lúc trẻ, chị đã là thủ khoa đầu vào của hai trường đại học danh tiếng. Thời gian đó, Đừng đã đoạt một suất học bổng sang Pháp. Con đường học vấn của chị được coi là sáng sủa nhất ở vùng này. Khi trở về, chị là một bác sĩ trẻ năng động, được điều về bệnh viện tuyến trung ương. Vài năm sau, chị đã là phó khoa sản của một bệnh viện, rồi chị mở một cửa hàng tư nhân về sức khỏe sinh sản.
Nhưng rồi, thấy mình có khả năng trong trong việc giúp các thai phụ bảo toàn được danh dự, hay giữ cân bằng dân số vì hạnh phúc gia đình, chị đã chuyển sang một công việc mới, ấy là một bác sĩ phá thai. Với trí tuệ và năng lực của một người có tài, chẳng mấy chốc chị trở thành một người bác sĩ giỏi giang trong công việc hàng ngày của mình.
Quả vậy, một khi đối mặt với những lời xì xào bàn tán không hay về nghề phá thai. Chị lại tự nhủ: Ôi dào! Các ông các bà cứ nghĩ thế, chứ tôi không làm có vẫn có người người khác làm đó thôi, ai có giỏi thì làm đi”. Cứ thế, mỗi ngày hàng chục cô gái ra vào phòng chị để được giải quyết những cái thai mà họ cho là ngoài ý muốn kia.
Nhà Đừng giờ đã to nhất con phố này rồi, mà khách hàng thì không thấy có xu hướng giảm. Chị rất bằng lòng với công việc hàng ngày của mình: nhiều tiền, lại chẳng quá vất vả. Có một điều khiến chị hơi băn khoăn là những thai nhi sau khi được chị giải quyết xong kia, thường không phải ai cũng lấy lại, mà cứ tồn để đống trong những túi màu đen ở thùng rác. Thai nhỏ chị còn xả trong bồn cầu được chứ thai to thì chịu. Những ngày mùa hè, mùi tanh của máu, cái lạnh của âm khí xoắn quyện như ngấm cả vào tường nhà. Thật may mắn khi gần đây chị mua được hẳn bốn con chó béc- giê về giữ nhà. Thế là số thai nhi kia cứ mỗi cuối ngày lại được quẳng cho lũ chó xâu xé loạn xạ sau vườn nhà. Đôi lúc chị cũng cảm thấy có chút gì đó hơi nhẫn tâm. Nhưng kệ. Với chị, đống thịt vụn kia thì chôn hay vứt đi, hay quẳng cho chó thì cũng khác gì nhau. Điều quan trọng là sự sống trong đó đã chấm dứt. Bởi thế hàng ngày chị vẫn thản nhiên cho lũ chó ăn mà không mảy may suy nghĩ quá nhiều.
Có một chút xáo trộn nhỏ, khi mà có mấy người phụ nữ nghèo thỉnh thoảng lại ghé qua có nhã ý xin chị những thai nhi bị ruồng bỏ kia để mang về chôn cất và cầu nguyện. Chị bỏ ngoài tai tất cả.
Ôi giời! Cho họ thì lấy gì cho chó nó ăn, thịt bò bây giờ cũng không rẻ. Chị thầm nhủ vậy.
Chị muốn tống cổ họ ngay khi thấy họ rụt rè ở phía cửa nhà mỗi lần.
Chị lại nghĩ: không biết họ đi làm thế có được ai cho tiền không biết, đội nắng đội mưa đạp xe từ đâu đến đây làm gì cho khổ thế không biết.
Chị không mắng chửi họ ra mặt nhưng nhất định không muốn cho họ chạm mũi bàn chân đến hàng gạch đầu tiên ngoài cổng nhà mình.
Những con người nghèo kiết xác kia không đáng để mình bận tâm. Đừng luôn tự dặn lòng mình như vậy. Chị còn phải trau dồi thêm kinh nghiệm thực tế và từ đồng nghiệp để làm sao cho những bà mẹ kia không bị nhiễm trùng hay bị vô sinh. Công việc phá thai với chị giờ rất đơn giản, chỉ cần bỏ ra thời gian bằng bữa cơm trưa là có tiền triệu bỏ túi ngay. Với sự giỏi giang và tinh thần ham học hỏi của mình, chả mấy chốc địa chỉ nhà Đừng nườm nượp những cô gái trẻ qua lại để giải quyết hậu quả. Có đôi người còn trở lại cảm ơn chị hậu hĩnh vì đã bảo toàn danh dự cho họ hay giúp họ không phải làm mẹ của những đứa con khuyết tật. Chị từ chối, với chị như thế cũng là đủ rồi.
Nhưng lạ thay, có nhiều đêm những vong hồn thai nhi lại hiện lên trong những giấc ngủ của Đừng. Chúng hướng ánh mắt cầu xin, van vỉ chị mà không thể nói được. Chị cũng sợ, nhưng tỉnh dậy rồi, công việc kia lại như một thói quen, chị lại tiếp tục làm như không có gì xảy ra.
Mấy con chó nhà chị giờ to béo, mắt quắc lên, trán co lại, bộ lông mượt chuốt dài ra. Chúng được như thế cũng nhờ rất nhiều vào số sản phẩm tận dụng được từ nghề nghiệp của Đừng. Mặc cho người ta kêu mình làm như thế thì thất đức, không có hậu, hay bị quả báo đi chăng nữa, chị vẫn không ngừng học hỏi. Học để làm sao cho những sản phụ được an toàn, tiếp tục làm mẹ khi muốn. Nhất là những ca mà ảnh hưởng tới tính mạng người mẹ, chị cẩn thận lắm. Chị hãnh diện vì được khen là bác sĩ giỏi, là không bao giờ lấy tiền trả ơn sau khi họ được giải quyết hậu quả. Nhiều người chê, nhiều người khen, chị chẳng hề nao núng gì.
Ngoảnh đi ngoảnh lại, chị cũng đã ba mấy rồi còn gì. Chị chợt nghĩ, có lẽ vì quá đam mê nghề nghiệp mà quên đi thiên chức của một người mẹ. Chị cũng đã cưới chồng được mấy năm rồi còn gì. Nhưng mà có cũng như không, chồng chị có bao giờ quan tâm chị đâu. Có mấy ai hiểu cho chị được. Mấy ai yêu nghề hơn chị được. Nhưng dù sao cũng cần phải có con, quyết là làm, chị đã có thai ngay sau đó không lâu.
Những ngày bụng lộ to ra, Đừng tạm nghỉ làm việc. Cứ sáng sáng đi chợ, chị không quên mua thịt bò về cho lũ chó. Mấy con chó không còn mượt đẹp như trước nữa. Chúng nô đùa, gầm gừ, đuổi nhau khắp vườn.
Rồi chị sinh được một bé trai. Cảm giác hạnh phúc dâng tràn. Họ hàng, bạn bè tới chúc mừng nhiều, quà cáp nhiều. Có mỗi một bà già làm cho chị không được thoải mái lắm. Đó là bà dì góa của chị. Bà bảo:
- Được làm mẹ rồi, giờ bỏ cái nghề này đi con nhé.
- Con không làm vẫn có người khác làm dì ơi! Xã hội là vậy.
- Con không ân hận chứ?
- Con không.
- Nhưng cái nghề đó thất đức lắm con ơi
- Nghề nào chả như nghề nào hả dì?
- Làm hay không là quyền tự do của con, nhưng con nghĩ mà xem, giết ở trong bụng và giết ở ngoài khác gì nhau? Mang tội đấy.
- Nếu có tội thì đã bị đi tù.
- Con vẫn quyết không ân hận chứ?
- Nhất định không, chả lẽ những bà mẹ nguy kịch tới tính mạng vì thai, không có người như con, chết cả hai, thì tội của ai?
- Còn đa số các ca còn lại thì sao? Con ác lắm.
Cuộc trò chuyện cứ thế làm cho chị cảm thấy mệt mỏi. Chị cảm thấy bức bối trong người, ngồi thụp xuống cái đệm cứng đờ.
- Con đừng làm thế nữa, có nghiệp báo đấy
- Dì về đi. Dì dạy khôn con đấy à
- Học cho giỏi vào, giờ lại hỗn với cả dì nữa.
Bà dì lóc cóc cầm cái nón đi về. Nước mắt bà ướt nhòe. Thỉnh thoảng con bé nó cho mình đồng ra đồng vào, ai ngờ nó lại làm cái nghề này. Dì ấm ức lắm. Muốn về nhà thật nhanh. Bước chân bà liêu xiêu lê ra phía cổng.
-Dì cứ hiền lành quá mức như thế, nghèo là phải.
Chị cố nói với theo như thế. Thằng bé khóc oe oe. Chị vẫn chưa hết bực bội. Thằng bé khóc ngằn ngặt, lại thêm tiếng chó sủa nhộn nhạo, chị cảm thấy ức chế.
Bế con lên mà Đừng cảm thấy bình an quá. Cậu bé ngoan ngoãn khi tìm thấy bầu sữa quen thuộc. Nhìn con âu yếm. Chị hôn nhẹ nhàng lên trán của con. Tiếng béc-giê lại sủa chói lói, át cả vào căn phòng. Cậu bé giật mình khóc thét lên. Chị bế con dậy ra đóng cửa mà ru con ngủ. Miên man nghĩ ngợi, chị lại bị ám ảnh bởi những mảnh tay chân bé xíu. Nhưng chẳng lẽ do thói quen? Thật là chị không cảm thấy quá sợ sệt. Chai đá? Vô cảm? Mạnh mẽ? Nhẫn tâm? Có lẽ nào lại tới mức ấy không? Chị tự vấn lòng mình trong khững hình ảnh kia vẫn cứ nhập nhoằng trong ý nghĩ. Đầy cữ rồi đấy, chị tự nhẩm.
Con đã ngủ, chị nhẹ nhàng đặt con lên chiếc nôi xinh xắn. Chị ra chợ một lát để mua thức ăn cho mấy ngày và mua cả thịt bò về cho lũ chó. Chợ cũng gần nhà. Ở đây mọi thứ đều đắt đỏ. Nhìn những bà bán hàng nhếch nhác quá, luộm thuộm quá. Chị chỉ muốn mua nhanh để về thôi. Lòng trí lúc nào cũng nghĩ về con. Từ khi được làm mẹ, chị đã hạnh phúc hơn rất nhiều. Dù có phải đi ăn xin chị cũng không để con phải khổ. Nhưng dạ đàn bà thường hay nghĩ vụn vặt, chị cũng thế, nhưng dù nghĩ gì, làm gì cũng nghĩ hướng về cho con.
Dòng người đi chợ đông đúc, rộn rạo, tiếng mặc cả, những lời ngọt ngào trao đi đổi lại.
- Mua đi chị ơi, mười một bán mười chị ơi
- Mua cho em với, em bán rẻ cho
- Chị ơi! Cá đi chị, em bán lấy vốn
- Cô ơi! Thịt này, bán lỗ cho cô này.
Nghe những lời mà chị thấy họ giả tạo quá. Biết sao được. Cuộc sống mưu sinh mà. Chị chen chân nhanh để về với con. Mới xa con có một lúc mà nhớ quá. Về tới cổng mà không thấy con khóc. Chị yên tâm lắm. Cất hoa quả vào tủ lạnh, mang thức ăn vào bếp, chị quay trở lại bật ti vi xem.
Màn hình vừa bật, đập vào mắt chị là những thống kê về tỉ lệ nạo phá thai lớn hơn cả số trẻ được sinh ra. Chị thản nhiên bật chuyển kênh khác, có gì lạ đâu, mỗi năm ta còn giải quyết gọn hàng ngàn vụ cơ mà. Nghĩ tới đó chị cảm thấy thỏa mãn lắm. Mấy bác sĩ đủ tài làm được như mình? Hay là người ta bị vô sinh cũng không dám quay lại nhỉ? Mặc kệ họ.
Nghĩ luẩn quẩn, là Đừng lại nghĩ về con. Sau này sẽ cho thằng bé đi du học cho nó được mở mang tầm mắt, không cho nó làm bác sĩ nữa, cho nó làm việc gì đó không bị bàn tán nhiều hơn. Mọi ngày căn phòng phảng phất mùi âm khí, không hiểu sao hôm nay cái mùi chết chóc nồng nộc vào tận phổi. Chị cảm thấy nôn nao trong người, bủn rủn tay chân, hình ảnh hàng vạn sinh linh không vẹn hình hài cứ nhập nhoằng trước mắt. Hay là mình bỏ cái nghề này đi nhỉ? Bỏ rồi thì biết làm gì đây? Làm hay không thì xã hội vẫn thế, đạo đức là cái gì cơ chứ?... hàng chục ý nghĩ bủa vây lấy chị, thật khó chịu.
Mấy phút xoẹt qua. Chị lại nghĩ tới con và giật mình, sao thằng bé ngủ lâu thế. Chạy vội sang phòng, thấy cánh cửa phía sau vườn hé ra, không thấy con đâu, chị sợ hãi. Lẽ nào có ai đó bắt cóc con mình để tống tiền sao, nghĩ thế, chị thót tim. Dáo dác nhìn khắp gầm giường, cánh tủ, chị hốt hoảng xô tung cánh cửa lao ra vườn. Chị thét lên khi nhìn cái cảnh quen thuộc trước đây: Mấy con chó béc- giê đang tranh nhau ăn những mảnh thai nhi. Nhưng lần này không còn là thai nhi nữa, chị tin vào mắt mình dù cho không muốn tin. Chiếc áo bé bỏng của con bị xé nát, một con béc- giê đang ngoạm một cái đầu phía góc vườn. Mấy con kia đang gầm gừ, xâu xé phần còn lại.
-Trời ơi! Con tôi.
Chị nhảy xổ vào đàn chó. Mấy con chó sợ mất miếng mồi, mỗi con giằng một miếng, xé toạc phần cơ thể còn lại. Con giằng chân, con giằng tay với cả tảng thịt dính lủng liểng chạy nhốn nháo. Quả tim bật ra. Chị lấy hết sức chạy tới chộp quả tim rồi đuổi theo đàn chó. Lũ chó gầm gừ nhất loạt phóng thẳng ra ngoài đường lớn, mỗi con ngậm một miếng thịt ngon mà lâu rồi chúng mới được ăn…
Ngày tháng quạnh quẽ buông qua. Đã năm năm bác sĩ Đừng bỏ nghề. Thời gian đầu, chị bị hoang tưởng, cứ mỗi lần đi vệ sinh là có một cánh tay thai nhi to gần bằng mẩu phấn cứ thò lên trên mặt nước của bồn cầu. Dần dà, cứ tang tảng sáng, chị lại tới nhà thờ cầu nguyện rồi trở về nhà tiếp tục bán thuốc. Đến chập tối, chị lại lững chững đi theo mấy người phụ nữ chị hắt hủi ngày trước để đi gom những hài nhi chưa được sống một ngày ngoài bụng mẹ về chôn. Họ vui vẻ hướng dẫn chị tới những cơ sở phá thai nhan nhản trong thành phố này. Công việc thiện nguyện ấy đã giúp chị cảm thấy cuộc đời đáng sống hơn. Chị mới được rửa tội để trở thành một con chiên, một tân tòng trong giáo xứ Cứu Độ. Giờ đây, là mẹ của hàng chục trẻ mồ côi, là một phụ nữ nhiệt tình trong phong trào vận động chống phá thai, Đừng cảm thấy hạnh phúc, dù cho là thiếu đi một cái gì đó mãi mãi.
Mã số: 14-027
MỒ CÔI
Một chiều đầu đông năm 1990, một người phụ nữ khó nhọc đi bộ một mình từ chợ về nhà. Cứ đi được vài bước, chị lại dừng chân ôm bụng, nói thầm : “Con ơi, cố chút nữa gần về tới nhà rồi !”. Chị đã sinh ra một bé gái có cặp mắt đen, nước da phớt hồng và khuôn miệng nhỏ với hai má lúm sâu thật sâu. Ngày ấy, bệnh viện là nhà, phòng hộ sinh là căn buồng có ô cửa nhìn ra gốc tùng diệp già. Bà nội là bác sĩ phụ sản. Sự thiếu thốn ấy đã không đánh gục được sự dẻo dai của người phụ nữ miền sơn cước. Đúng 5h chiều một sinh linh cất tiếng khóc chào đời. Chồng chị vội đi lấy cuốn sổ tay ghi lên đó dòng chữ :" Bé Quyên, sổ lúc 5h chiều ngày 24.11.1990, tức ngày 15.10 năm Canh Ngọ." Cuốn sổ ấy đã trở thành kỉ niệm của chị em nhà nó. Một tuần sau khi sinh, mẹ đã chọn cho nó tên thánh Anna và nó bắt đầu ơn gọi làm người Kitô hữu như thế !
Năm tháng qua đi, con bé lớn lên trong tình thương của bố mẹ và bà nội. Thường thì nó ở nhà với bà nội vì bố mẹ phải đi làm xa. Bà dạy nó làm dấu, đọc kinh. Bà phải sửa nó rất nhiều lần vì nó có hai tật là hay đeo dép trái và làm dấu tay chiêu. Trước khi ăn cơm bà dạy nó nói câu : “Con mời Đức Bà ăn cơm” khi đi ngủ thì nhắc nó : “Xin Đức Bà cho con ngủ ngon”. Bà đã dạy nó biết bao điều lặt vặt khác nữa. Bà là điển hình của một thế hệ sống đạo, giữ đạo và dạy đạo theo cach hết sức mộc mạc nhưng nó lại thấm sâu trong tâm hồn thế hệ con cháu của bà. Về sau khi bà mất, mỗi khi trông em, nó lại bắt trước bà để dạy cho các em những điều mộc mạc như thế.
Năm 5 tuổi thì mẹ nó sinh em. Không phải là một mà là sinh đôi, nó vui quá chừng !
Ngày nó lên lớp 10, khi dân làng đang góp sức cùng nhau xây dựng ngôi nhà nguyện của thôn thì một vụ tai nạn xảy ra. Sau hai cơn mưa rào bức tường mới xây đã không may ập xuống… Tai họa ấy đã mang bố rời xa chị em nó mãi mãi. Sáng hôm đó, trước khi đi học, bố gọi nó lại đưa cho nó 200.000 đồng và nói : Bố mới lĩnh tiền công tháng này, một phần để đóng tiền ăn cho hai em, còn đây con cầm đi đóng tiền xây dựng trước, tiền học phí để mấy hôm nữa bố đưa sau nha ! Nó thưa một tiếng “vâng” nhỏ nhẹ, rồi trộm nhìn bố. Nó thấy chiếc cổ áo đã sờn và bạc phếch mà ngày nào bố cũng mặc. Nó cầm tiền mà dưng dưng trong lòng, đôi tay nhỏ chạm vào bàn tay bố, nó thấy thô rát bởi những vết chai sạn. Nó thương bố. Có ai ngờ đó cũng là lần cuối cùng nó được nhìn và chạm vào người bố thân yêu. Còn đứa em 6 tháng tuổi trong dạ mẹ nó thì mãi mãi không được nghe giọng của bố.
Ngày bố còn sống, cuộc sống gia đình còn có miếng ăn, miếng để. Chị em nó không sung sướng hơn chúng bạn nhưng cũng không thiệt thòi hay thiếu thốn thứ gì.
Bố mất, mẹ nó ở vậy nuôi ba đứa con thơ dại. Giữa cảnh mẹ góa con côi, kinh tế khó khăn, mẹ phải bán chiếc honda để làm vốn để xoay sở việc buôn bán. Mẹ nó lại tranh thủ đi giúp việc thêm vào buổi chiều cho một gia đình trên thành phố. Mẹ chỉ còn hai thứ tài sản quý giá nhất : Bốn chị em nó và chiếc xe đạp cũ.
Nó lớn dần, tuổi 18 – cái tuổi rất dễ tự ti và mủi lòng, nó hay mặc cảm và tủi thân.
Từ ngày mẹ đi làm thuê, nó trở nên trầm mặc, ít giao du với bạn bè, không còn vui vẻ như trước nữa.
Hôm thi đại học, nó thấy mẹ dậy sớm ngồi trước tượng Đức Mẹ thật lâu, rồi lặng lẽ xuống bếp nấu xôi vò. Ăn sáng xong xuôi, mẹ lại gò lưng trên chiếc xe đạp cũ đưa nó đi thi. Mọi ngày, nó vẫn tự đạp xe tới trường nhưng hôm ấy địa điểm thi ở xa mà nó thì không biết đường.
Nhìn thấy các bạn cùng đi thi được bố, được mẹ quan tâm, chăm sóc, chiều chuộng đủ kiểu thì nó chạnh lòng. Dường như ai ai đều nán lại cổ vũ tinh thần cho con em mình thi tốt. Còn mẹ nó phải vội về cho kịp giờ làm việc.
Nó xuống xe, nhìn mẹ, giọng đượm buồn : “Thôi về đi mẹ !”.
Hết giờ thi, ngoài cổng trường nhốn nháo kẻ đón, người chờ, lời hỏi han rộn ràng, tiếng xe máy dòn nổ. Nắng rát, nó lầm lũi, chỉ có cái bóng là “người bạn đường” đi kề bên đôi chân. Nó thấy sự cô độc như nhân đôi…
Nhưng lạ thay ! Lúc đó, nó nghĩ đến mẹ và càng thương mẹ hơn. Giờ này chắc mẹ cũng đang một mình bươn chải với những công việc không tên trong một gia đình giàu có, xa lạ nào đó. Nó rảo bước nhanh để ghé qua chỗ mẹ làm, chờ mẹ cùng về.
Năm đó, nó đậu vào khoa Văn trường sư phạm. Ước mơ của nó và cũng là của bố mẹ đã thành hiện thực. Nhưng niềm vui không được trọn vẹn bởi mẹ lại bỏ chị em nó khi chưa kịp nhìn nó ra trường. Mẹ ra đi vì một cơn đột cơn đột qụy khi đang bán hàng ngoài chợ. Đau đớn, khóc hết nước mắt nhưng nó vẫn phải đứng dậy. Nó trở thành trụ cột và cáng đáng mọi việc trong nhà. Nhìn nó cứng cáp và trững trạc hơn so với những đứa bạn 9X cùng trang lứa. Nó ít cười, thi thoảng người ta mới nhìn thấy hai má lúm đồng tiền khi nó đùa vui với các em. Dường như sự vô tư lặn sâu và mất dấu trên khuôn mặt tròn trĩnh của nó.
Vẫn chiếc xe đạp cũ, nó kiếm việc làm thêm nuôi hai em đang tuổi đến trường. Nó làm ở một cửa hàng hoa khá lớn. Khách ra vào tấp nập, người chọn bó này, kẻ chỉ kiểu kia… Có những ngày mệt lả, bụng đói meo nhưng nó vẫn phải tươi cười.
Khuya, nó trở về nhà. Bếp núc lạnh tanh. Đứa út trán hâm hẩm nóng, mắt nó hướng ra phía cổng ngóng chị về…
Thằng anh nghẹn ngào :
- Buổi chiều, em đưa Bống sang nhà cô Thủy chơi đồ hàng cùng thằng Sung và cái Lan. Hôm nay, sinh nhật Bống chị à !
Nó không nói gì, ôm em vào lòng, giấu vội giọt nước mắt chảy dài trên má, giọt nước mắt tủi thân giữa cảnh mồ côi khốn khó. Từ ngày mẹ mất, chị em nó chưa được ăn một bữa cơm ấm cúng bên nhau.
Chúa Nhật hôm sau, nó đưa em đi lễ chiều và dặn ba em cầu nguyện cho bố mẹ. Bố nó đã ngã xuống ngay tại chính ngôi nhà nguyện khang trang này. Nó tin bố mẹ ở trên Thiên Đàng đang mỉm cười với chị em nó, còn Chúa thì đọc được tất cả những niềm vui, nỗi buồn mỗi khi ghé nhìn nó từ trời cao. Tan lễ, nó bảo các em nán lại đọc kinh để cầu nguyện cho ông bà và bố mẹ. Nắng chiều hắt hiu xiên ngang qua cánh cửa mở thênh thang. Bóng bốn chị em đổ dài trên nền gạch. Mắt nó bị hút vào ánh sáng từ ngôi Nhà Tạm. Nó chợt nhận ra Chúa đã giam mình trong đó từ lâu lắm rồi. Dường như nỗi buồn trong tim nó đang tan ra và sự đơn độc cũng được thu nhỏ.
Nó ngước nhìn Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh rồi thả lòng theo đường ray của lòng cậy trông và yêu mến.
Bỗng, có một bóng người vụt nhanh qua ô cửa. Ánh chiều loang loáng khiến nó không kịp nhận ra đó là ai. Chỉ thấy có một đôi mắt nhìn nó cách trìu mến. Nó nghe được một lời duy nhất vọng lại trong hồn : “Con yêu, ơn ta đủ cho con, hãy vững vàng lên !” Mở mắt, giật mình, nó ngước nhìn lên Nhà Tạm, cánh cửa nhỏ đang mở…
Hôm ấy, nó dành một ngày tự tay đi chợ và nấu những món ăn ngày xưa mẹ dạy. Một bữa tiệc nhỏ được bày ra để đền bù cho sinh nhật của Bống hôm trước vì nó lỡ quên. Nó mua một chiếc bánh sinh nhật nhỏ xinh và cắm lên đó những cây nến nhiều màu. Nhìn đôi mắt thơ ngây của Bống ánh lên. Nó ấm lòng. Bốn chị em quây quần bên mâm cơm thơm mùi canh cá quả nấu với dưa chua, Những tiếng cười khúc khích làm dậy không khí một gia đình. Ngoài trời, gió lạnh mùa đông làm cành bàng khẳng khiu đan vào nhau, chỉ còn lơ thơ vài chiếc lá đỏ úa, vài ba mầm non đang nhú lên từ kẽ lá. Một niềm hy vọng mới cũng đang nhen nhóm lên trong tâm hồn nó… Mùa xuân sắp về rồi !
Mã số: 14-028
NHỮNG NGÔI MỘ BÊN SÔNG
- Ông Hai! Ông Hai ơi! Ra lấy đồ nè!!!
Ông già lững thững đi ra bến sông khi nghe tiếng gọi mỗi sáng. Người trên thuyền đưa cho ông mấy củ khoai, vài lon gạo. Ông Hai miệng thều thào, ông vẫn có thói quen lẩm bẩm những câu nói không ai hiểu nổi.
Từ ngày ông Hai sống ở bến sông này, bà con Xóm Đoài đi đâu về cũng ghé, người cho ông vài củ khoai, kẻ biếu ông mấy con cá. Cuộc sống của ông nhờ vào lòng hảo tâm của bà con nghèo. Không ai biết tên thật của ông Hai là gì. Cũng không ai biết ông đến từ đâu. Người già nhất của Xóm Đoài nói rằng ông bị sóng đánh và dạt vào bến sông này. Người ta dựng cho ông một túp lều nhỏ. Ông không nhớ tên tuổi của mình, càng không nhớ quê hương ở đâu. Có lẽ sau lần chết hụt trên ngọn sóng năm xưa, ông đã bị mất trí.
Ngày ngày, ông ra ngồi ngắm dòng sông, miệng lẩm bẩm điều gì đó. Mỗi khi có xác người trôi vào cửa sông, ông Hai lại tìm cách vớt lên, mai táng ở khu đất hoang trước cửa lều ông. Điều kỳ lạ là mỗi ngôi mộ, ông đều cắm cho họ cây thánh giá. Có ngôi mộ thì cây thánh giá gỗ, có ngôi mộ cây thánh giá bằng 2 nhánh cây buộc lại. Qua việc làm của ông, người dân Xóm Đoài đoán ông Hai cũng là người theo đạo.
Chiều cuối tuần, khi nghe tiếng chuông nhà thờ, ông Hai thường đứng nhìn về phía ngọn tháp. Cũng có lần ông dò dẫm đi về hướng đó, nhưng đi nửa chừng thì chân mỏi, gối đau nên ông dừng lại nhìn ngọn tháp chuông rồi quay về lều.
Đêm mịt mùng. Nó cố gắng mở mắt. Toàn thân đau nhừ. Nó cố nhớ lại xem mình đang ở đâu. Không định hình được. Cố hồi tưởng. Nó nhớ mình cùng mấy thằng bạn tù tổ chức cướp tàu Phương Nam, một con tàu nổi tiếng giàu có. Nó cùng mấy bạn chiến hữu đứa cầm dao, đứa cầm mác xông lên. Sao giờ mình lại nằm ở đây? Mấy thằng kia đâu? Đây là đất liền chứ không phải trên tàu. Nó lim dim mắt. Ngọn đèn dầu leo lét hắt lên mái lều. Phía góc bên kia, một ông già đang ngồi, miệng như lẩm bẩm điều gì đó. Căn lều sáng mờ mờ, chập chờn ngọn đèn. Nó gượng dậy, cái lưng đau tê tái. Ông già thấy nó cựa quậy liền đi tới. Ông cầm ngọn đèn soi vào mặt nó. Thấy nó đã tỉnh, ông đưa cho nó cái khăn ướt. Nó hiểu ra ông là người đã cứu nó. Trong ánh đèn mờ ảo, nó thấy bóng ông mảnh khảnh, yếu ớt. Ông đỡ nó ngồi dậy.
- Ông lão, tôi đang ở đâu thế này? - Nó cất tiếng hỏi.
Ông lão vẫn im lặng, miệng ông lầm bầm điều gì nó nghe không rõ. Nó thảng thốt. Chẳng lẽ là ma chứ không phải người. Làm gì có ma. Đời nó vào tu ra tội, chơi bời đủ chốn, cướp bóc đủ nơi, nó đâu sợ gì ai mà nay lại sợ ma!? Nó ghé mặt lại gần nhìn ông lão. Thì ra ông ấy không bình thường. Ông này hình như lúc tỉnh lúc mê.
Ông lão lục trong cái rổ lấy cho nó vài củ khoai luộc. Nó cầm lấy, lưỡng lự suy nghĩ. Thì ra ông già này đã vớt mình lên. Ông đã cứu mình. Đúng là người tốt. Cái bụng nó đói cồn cào. Nó ăn. Trong chớp nhoáng đã hết mấy củ khoai. Ông lão tiếp tục lục tìm đồ ăn cho nó. Một gói cơm nếp được gói cẩn thận trong tàu lá chuối, ông đưa cho nó. Thêm mấy con cá kho. Lần này bụng nó đã bớt đói. Nó nhìn ông bằng ánh mắt biết ơn và ăn chầm chậm, từ từ.
Ăn xong, nó vẫn thấy cơ thể mỏi nhừ. Nó nằm xuống ngẫm ngợi. Nó nhận ra thân mình nó giống như bị gậy đập vào lưng. Chắc tối qua trên tàu nó bị tụi thuỷ thủ phản công và quăng nó xuống sông. Chắc phải vài bữa cái lưng mới bớt đau, lúc đó mới hy vọng đi tìm đồng bọn. Mà biết tìm ở đâu? Bao năm qua nó lang bạt, nay đây mai đó cùng đồng bọn. Khi đói ăn thì đi cướp bóc. Lúc có tiền cũng không biết về đâu. Có nơi chốn nào để về? Nó thiếp đi trong muôn vàn ý nghĩ bâng khuâng.
- Ông Hai! Ông Hai ơi! Ra lấy đồ nè!!!
- Ông Hai! Ông Hai ơi! Ông đang làm gì đó? Ra lấy cá về ăn nè!
- Ông Hai! Ông ngủ dậy chưa? Mấy bữa nay có vớt được xác nào không?
Nó choàng tỉnh khi nghe tiếng gọi í ới ngoài bến sông. Ông lão lững thững đi ra. Nó ngồi nhìn qua phên vách. Gió từ bến sông thổi vào lều làm cho những mảnh ni lông tung lên phần phật. Xa xa trước lều, một bãi đất trống thấp thoáng những cây thánh giá mọc lên trên những ụ đất. Ngoài bến sông, mấy con thuyền nhỏ ghé lại. Mấy người đàn bà, đàn ông đưa cho ông Hai những bọc đồ ăn.
- Ông Hai nhớ cất giữ cẩn thận mà ăn dần nhé!
Giọng nói nghe quen quen. Nó dướn mắt nhìn qua tấm phên. Đúng là vợ của lão Chương mà hôm trước nó cùng đồng bọn trấn con thuyền đó. Nó tự cười chế giễu: Đời thật oái oăm! Mình đi cướp của họ, nay lại ăn nhờ của họ! Chớ trêu!
Ông Hai hai tay khệ nệ xách đồ vào lều. Ông xách 2 chuyến mới hết đồ. Ông để đồ trước cửa lều, mở ra xem từng thứ rồi lúi húi cất đi. Ông đặt lên cái bàn nhỏ một gói cơm còn nóng cùng với thịt. Có ai đó cho ông 1 chai rượu, ông đặt lên bàn, làm hiệu bảo nó lại ăn. Nó cố lê gối lại bên bàn. Ánh nắng sớm chiếu vào lều toả sáng cả chỗ nó nằm. Nó nhìn rõ mặt ông lão. Đúng là một ông lão hiền lành nhưng mỗi tội không được thật tính. Nó bắt đầu thử nghiệm lại suy nghĩ của mình.
- Ông! Ông tên là gì? - Nó cất tiếng hỏi.
Ông lão nhìn nó cười cười, lắc đầu:
- Không nhớ!
- Thế quê ông ở đâu? Vợ con ông đâu?
Ông lắc đầu. Miệng ông lại trệu trạo lẩm bẩm điều gì. Ông quay mặt nhìn ra sông trầm ngâm, rồi lại quay vào nhìn nó cười cười. Hết cười lại lầm rầm nói một mình. Nó giật mình khi nhìn thấy trên cổ ông có có cây thánh giá bằng đồng tự chế từ vỏ đạn. Có lẽ nào?! Nó tự nhủ. Nó lê lại gần ông, ngồi bên ông để nhìn cho rõ sợi dây chuyền và cây thánh giá trên cổ. Ông lão đưa tay lên làm dấu để ăn cơm. Nó nhìn ông trân trân. Càng nhìn kỹ, nó càng thấy ông quen quen, giống như một hình ảnh nào đó rất nhạt nhòa trong tâm trí. Hai hàng nước mắt nó tự dưng ứa ra. Cử chỉ làm dấu của ông gợi nó nhớ về tuổi thơ xưa cũ.
Nó nhớ lại ngày thơ ấu xa lắm rồi. Nó cũng có một gia đình hạnh phúc, có cha mẹ. Cha nó làm nghề buôn muối. Ông cũng hay mang cây thánh giá bằng đồng tự chế trên cổ. Ông yêu quý cây thánh giá vô cùng. Sau mỗi chuyến chở hàng về, ông hay cõng nó trên lưng ra cánh đồng cùng thả diều. Nó thường lấy tay mân mê cây thánh giá trên cổ cha. Hai cha con cùng cười vang mỗi khi nó giật giật sợi dây chuyền.
Có lẽ nào ông lão chính là cha nó? Cha nó còn sống sao? Nó nhìn ông lão rồi tự hỏi. Cây thánh giá chứng minh 99% ông là cha nó. Điều còn lại phải làm ông lão nhớ lại và hỏi người đã vớt ông lên. Biết đâu tai nạn năm xưa cha nó ngã khỏi thuyền muối cũng giống như nó rơi khỏi con tàu Phương Nam đêm trước? Cả ông và nó đều sống và sống tại cửa sông này. Lòng nó bâng khuâng khó tả. Từ ngày bỏ nhà ra đi, tới nay bao năm nó cũng không nhớ. Chỉ biết rằng ngày đó mẹ nó bị bệnh, nó còn nhỏ, nó và đứa em gái được gửi cho người bà con nuôi. Nó buồn vì mất cha, xa mẹ. Mẹ nó nằm viện. Một chiều đi học về, nó muốn đi thăm mẹ, nó tự ý tìm đường lên phố rồi trôi dạt tới nay. Nó nhớ làng của nó có một ngôi nhà thờ ở giữa làng. Thỉnh thoảng, cha nó đưa nó tới nhà thờ. Cha nó hay cầm tay, dạy nó làm dấu thánh giá. Trên đường lưu lạc, có lúc nó cùng đồng bọn đi "làm ăn" có ngang qua ngôi nhà thờ nào đó, nó cũng chợt nhớ mang máng kỷ niệm ngày xưa. Lúc đó, nó chậc lưỡi: Tất cả chả còn gì! Cũng có lần nó gặp người quen nơi làng cũ, nó hỏi thăm được biết mẹ nó qua đời sau lần bệnh đó. Đứa em gái đã lấy chồng và đang sống ở xứ đạo cũ. Bao năm giang hồ, nó gắn bó với tên Tư Sẹo mà đồng hữu đặt cho. Nó quên cả tên thật của nó. Nay nhìn vào cây thánh giá trên cổ ông lão, nó nhớ ngày xưa mỗi lần nó mân mê cây thánh giá đó, cha nó luôn âu yếm nói: "Cu Hưng của bố! Bố thương Cu Hưng nhiều!"
- Ăn đi! - Ông lão giục nó.
Ông nhìn nó lúc trìu mến, lúc ngây dại.
- Cha! - Nó buột miệng gọi.
Ông lão nhìn nó cười cười. Nó nắm lấy tay ông, ông vẫn chỉ cười. Bàn tay gầy guộc mà thân thương. Cảm giác ấm áp lan toả cơ thể. Nó chợt nhớ ra mình còn có một gia đình.
Tiếng chuông nhà thờ đổ hồi. Ông lão đứng dậy đi ra bãi đất trống nhìn về phía nhà thờ. Ông nhìn nó cười cười rồi chỉ tay về hướng tháp chuông. Nó đứng dậy, đến bên ông. Nó không hiểu ông nói gì nhưng biết ông muốn nói về nhà thờ. Nó choàng tay vào vai ông, dìu ông bước đi về phía ngôi giáo đường. Ông vừa đi vừa mỉm cười.
- Cụ còn nhớ ngày cụ vớt ông Hai lên không?- Nó hỏi cụ Bàng bên Xóm Đoài.
- Nhớ chứ? Năm đó khoảng năm tám mươi. Ông ấy bị sóng cuốn, mắc kẹt trong một bè chuối. Lúc đưa ông lên, ông ngất lịm, cấp cứu hai ngày ông ấy tỉnh lại. Chỉ có điều ông không nhớ được quê quán ở đâu. Thỉnh thoảng tôi thấy ông nhắc tới tên Ghềnh, nhắc làng Xuân và Mằng Lăng gì đó. Nếu có điều kiện thì chúng tôi cũng gửi thông tin lên các phương tiện thông tin để tìm kiếm người thân cho ông ấy. Nhưng tiếc là không thể làm được.
- Vậy khi đó trong người ông Hai không có giấy tờ tuỳ thân gì hả cụ?
- Chỉ có một tấm hình ông Hai chụp cùng một đứa bé. Tôi nghĩ có thể là con trai ông ấy.
- Thế tấm hình đó cụ còn giữ không?
- Không. Ông Hai đang giữ. Ông ấy vẫn để trong túi áo trên ngực. Thỉnh thoảng ông ấy bỏ ra xem rồi lại ngồi thẫn thờ. Chắc ông không nhớ được gì đâu.
Nó xin phép ra về, nó chạy như bay về bãi sông, bên túp lều ông Hai. Ông Hai nhìn nó cười cười. Nó nhìn ông trong nước mắt. Đúng là cha tôi rồi! Trời đất ơi! Nó quỳ sụp xuống ôm lấy chân ông. Ông Hai ú ớ, trệu trạo cái miệng như muốn khóc khi nhìn thấy nó khóc.
- Chuẩn bị đi đâu mà mang nhiều đồ thế anh Hưng ơi! - Giọng nói từ con thuyền xuôi bến hỏi vọng vào bãi sông.
- Hôm nay gia đình tôi về thăm quê.
- Cả chị và hai bé cũng về hả?
- Dạ, cô có đi chợ trên phố luôn không? Nếu đi mua giùm tôi mấy bó hoa cúc, để tôi thắp hương cho cha tôi và cho các ngôi mộ ở đây.
- Có, vậy anh Hưng có mua hương luôn không?
- Hương nhà tôi vẫn còn nhưng Cô cứ mua giùm 5 bó nữa nha!
- Dạ được anh Hưng. Anh về quê có việc gì mà đưa cả vợ con về thế?
- Tôi về Quy Nhơn mừng lễ bổn mạng xứ nhà tôi. Lễ thánh Anrê Phú Yên đó cô.
- Thảo nào. Nhớ cầu cho em mấy kinh nhé!
- Tôi nhớ chứ! Cô cũng đừng quên cầu nguyện cho chúng tôi đó nha.
- Mấy đêm qua anh Hưng có vớt được thi hài nào không?
- Có, tôi vừa an táng sớm nay rồi. Đó, đó, ngôi mộ đang toả hương và cây thánh giá bằng gỗ mới đó cô.
- Em nhìn thấy rồi. Tội cho họ quá!
Nắng sớm toả xuống mặt sông sóng sánh hắt lên những cây thánh giá trên mộ. Tiếng người qua lại trên sông ngày càng nhộn nhịp. Anh đứng lặng nhìn những ngôi mộ, nhìn những cây thánh giá trong ban mai như toả sáng lấp lánh. Gió từ mặt sông thổi lên, êm đềm, mát rượi. Một ngày mới thật thanh bình!
Mã số: 14-029
BUỔI HỌC THƯ PHÁP
Gửi tặng Ông giáo nghèo: Frère Lê Văn Vinh
Viết về thầy, ngòi bút xanh mênh mang đầy cảm xúc
Nghĩ đến thầy, tâm hồn thơ ấm áp giữa ngày đông.
Báo cáo papa, con đã tới!
Nó nhảy tót xuống khỏi chiếc xe đạp cũ, vừa hạ chân chống, vừa nhanh nhảu cái miệng chào thầy kính yêu – người mà nó đã thân thiết như cha ruột.
Ông giáo là người con của miền Tây sông nước. Chất giọng lơ lớ thật dễ thương, nhẹ nhàng so với cái giọng chắc nịch như chì vùng đất Nghệ của nó. Chiều cao của thầy có phần khiêm tốn so với những người đàn ông khác. Thầy chỉ cao 1m60, hơn nó một chút. Vóc dáng gầy ốm của một người làm việc nhiều cùng mái tóc điểm hoa râm vì suy nghĩ bao đêm cho lớp lớp học trò khiến thầy già đi trước tuổi. Ngoại hình bé nhỏ như thế nhưng lại chứa đựng bên trong tài năng, kho trí thức vô tận và nhân cách cao thượng, tuyệt vời! Nó kết nhất ở ông giáo là đôi mắt. Mỗi lần nhìn vào đôi mắt ấy, nó cảm nhận được một biển yêu thương, một trời bình yên và cõi mênh mang cảm xúc. Đôi mắt hiền, trìu mến đã mang lại cho nó niềm vui, hạnh phúc và nguồn an ủi những lúc buồn phiền.
- Hôm nay mình học viết thư pháp tiếp nha thầy! Hôm qua con có tập viết ở nhà nhưng nét chữ non và yếu quá!
Đôi mắt vẫn chăm chú uốn từng đường cong trên thanh kẽm để làm cánh hoa ly, thầy cất tiếng nói nhẹ nhàng:
- Ừ! Con gái muốn học thư pháp thì thầy sẽ hướng dẫn thêm. Con đã tự tin viết được những chữ nào rồi?
- Con đã viết chữ “Xuân” để mừng năm mới, chữ “Hiếu” để tặng cha mẹ. Hôm nay con muốn viết chữ gì sâu sắc sẽ theo con suốt cuộc đời thầy ạ!
Nó hớn hở kể thầy nghe như đang kể về những chiến tích vĩ đại, vừa nói vừa đưa tay vào túi lấy tập giấy và cây cọ. Bỗng đôi mắt mở tròn, da trên trán nhăn lại, tay ngoáy ngoáy trong túi như đang tìm vật gì đó. Nó định thần lại rồi khẽ buông tiếng thở dài. Hiểu ý, thầy cất tiếng:
- Tiểu thư của tôi hôm nay lại quên cọ tiếp nữa à. Tuần học có hai buổi mà quên cọ cả hai lần.
- Cái tính này chắc thầy phải tập cho con trăm lần nữa mới thôi – thầy tiếp lời. Ngồi đó đợi thầy vào phòng tìm xem còn cây cọ nào nữa không. Thầy vừa đi vừa nói vọng lại với nó.
Nó bặm môi như đang tự trách chính mình sao lơ đãng, chẳng học được một chút chu đáo, kĩ lưỡng của thầy. Nó nhìn theo dáng đi nhanh nhưng hơi khòm xuống của thầy. Bất chợt dòng suy nghĩ miên man trong kí ức ùa về.
Nó - cô gái đến từ dải đất miền Trung. Quen chống chọi với cái khắc nghiệt của những mùa bão lũ hay những trận gió Lào khô khốc, nên tính cách cũng có chút ngang tàng. Nó bước vào ngưỡng cửa đại học với bao lạ lẫm trước cuộc sống mới và sự khó khăn như bao sinh viên những tháng ngày đầu rời xa mái ấm gia đình. Một năm đại học qua đi. Vui ít, còn lại chất chứa bao nỗi buồn. Buồn nhất là nhớ nhà. Mười tám năm nó sống bình yên trong vòng tay chăm sóc của cha mẹ. Giờ chỉ cần ai nhắc đến hai tiếng “cha mẹ” là nước mắt tự nhiên ứa trào. Đứa bạn ngồi đối diện hốt hoảng như vừa làm điều gì sai lầm với nó. Một lát sau nó mới bình tĩnh, giải thích vì nhớ nhà quá, nhớ cha mẹ! Năm thứ nhất đời sinh viên trôi đi chậm chạp, lê thê tính tháng, tính ngày. Nó cũng nhờ tới trung tâm gia sư và được giới thiệu dạy cho một em lớp 5. Phần để khuây khỏa, lấp trống thời gian; phần kiếm thêm chút tiền phòng cho cha mẹ đỡ vất vả. Nó nhớ tới hai nàng Kiều trong “Tỏa nhị Kiều” của Xuân Diệu và ngẫm thay mình cũng chẳng hơn hai nàng là mấy. Tư tưởng không thông khiến việc học của nó không đạt kết quả cao tương xứng với năng lực. Lại thêm tâm trạng muôn nỗi tơ vò, dường như nó chỉ muốn sống với quá khứ, sống vì quá khứ và ảo mộng cùng những kỉ niệm. Thời gian! Ôi chao “Ba thu dồn lại một ngày dài ghê”.
Bỗng một ngày kia nó gặp thầy. Giấc ngủ đằng đẵng hoàn toàn được đánh thức. Thầy đến! Mang cho nó luồng gió mát mẻ của tuổi trẻ, của khát vọng, của lí tưởng. Chính thầy đã khiến nó từ bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới. Hơn ai hết, nó cảm nhận được cái duyên kì ngộ với thầy. Hai con người xa lạ đến từ hai miền quê xa xôi trên dải đất chữ S đã gặp gỡ và trở nên thân thiết. Kể từ ngày gặp thầy, nó được sống là chính mình, được thể hiện hết khả năng bấy lâu nó vô tình lãng phí. Cuộc sống của nó bị đảo lộn hoàn toàn. Còn đâu nữa những ngày cuối tuần dài dằng dặc, ngoài việc đi dự lễ Chúa Nhật, còn lại giết thời gian? Còn đâu những buổi chiều rảnh rỗi tựa cửa nhìn vô định lên bầu trời xa xăm? Hay bao đêm nằm ôm gối khóc tức tưởi vì nhớ nhà? Không! Đó là nó của quá khứ. Nó bây giờ đã trở thành một con người mới: năng động, nhiệt tình và biết sống vị tha hơn. Chính thầy đã kéo nó vào guồng quay của cỗ máy tình yêu và phục vụ. Những giờ học giáo lý bổ ích, những buổi sinh hoạt sinh viên, cuộc gặp gỡ nói chuyện thân tình, những giờ ngoại khóa thú vị, được đi phát quà ở trung tâm khuyết tật hay những mùa hè xanh đến với các em nghèo vùng biển… Thời gian một ngày sao mà ngắn ngủi và nhanh qua đến vậy! Nó cũng muốn được như thầy: một ngày kia sẽ đứng trên bục giảng, dạy các em nhỏ điều hay lẽ phải, đưa các em vươn tới những chân trời mới đầy khát vọng và hoài bão, hướng dẫn các em tìm về cội nguồn của Chân, Thiện, Mĩ.
- Đây rồi, may quá vẫn còn một cây. Hơi cũ một chút nhưng vẫn xài tốt. Con cầm viết tạm hôm nay nhé. Hôm qua còn mấy cây, anh chị lớp trước mượn về nhà hết rồi.
Nó chợt nẩy mình, đôi mắt tinh nghịch mừng rỡ như đứa trẻ nhận được quà:
- Con yêu papa nhất! Cám ơn papa lắm lắm!
- Nãy giờ con đã suy nghĩ hôm nay viết chữ gì chưa?
- Dạ… Con mải nghĩ lại chuyện ngày xưa nên quên mất. Thầy tìm cho con một chữ sao cho con khắc cốt ghi tâm ấy!
Thầy mỉm cười:
- Con vừa nói xong từ đó mà còn bảo thầy tìm giùm gì nữa?
Nó ngơ ngác không hiểu ý thầy.
- Con đã nói bao giờ đâu mà thầy cứ chọc con hoài.
- Chữ gần cuối con vừa nói lúc nãy là gì nhỉ?
- Chữ… TÂM phải không thầy?
Thầy mỉm cười, còn nó thì ngẫm nghĩ như vừa được khơi gợi, đánh thức một điều gì đó thú vị lắm.
- Chắc con gái đã nghe về chữ “Tâm” nhiều lần rồi đúng không?
- Dạ, con nghe đã nhiều, cũng hiểu nhiều nhưng… ít lần suy nghĩ về chữ ấy.
Giọng thầy nhẹ nhàng giảng giải thêm:
- Con học Văn nên chắc hẳn không quên câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du: “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”, hay người xưa có câu: “Chữ Tâm độc tự thế mà hay. Thành bại nên hư bởi chữ này.” Con người ta sống với nhau không thể thiếu chữ ấy con gái à, đặc biệt là xã hội hôm nay. Như con thấy đó, nhiều bác sĩ vì thiếu chữ Tâm mà bắt bệnh nhân đợi chờ ngoài hành lang cho đến tắt thở; có người khiến bệnh nhân chết lại còn phi tang xác, không để họ chết thanh thản, toàn vẹn. Những con người lãng quên chữ Tâm mà bòn rút công trình, gây ra bao hậu quả nghiêm trọng. Còn những bảo mẫu đánh đập tàn nhẫn, chà đạp những em bé ngây thơ. Rồi chuyện cha mẹ đẻ giết con của mình, con giết cha mẹ, có kẻ giết cả gia đình năm mạng người chỉ vì tham tiền, hay chuyện vì ăn trộm một con vịt mà nỡ lòng giết chết hai em nhỏ… nham nhảm mọi thứ trên đời. Thầy kể những chuyện tiêu cực ấy không phải để con thất vọng hay chán nản với cuộc sống, nhưng để con thấy chữ Tâm đang bị sự đời gặm nhấm, bào mòn rồi tiêu tan. Hơn bao giờ hết, chữ Tâm cần thiết theo sát cả cuộc đời của con. Biết bao bậc vĩ nhân ghi danh lịch sử không chỉ bởi tài năng xuất chúng mà còn vì tấm lòng cao thượng, tâm hồn sáng tựa vì sao. Con đang theo đuổi nghiệp giáo nên thầy rất muốn con cảm nhận sâu sắc chữ này.
- Dạ, đôi lúc con đọc tin tức trên mạng những chuyện đau lòng như thầy kể mà thấy chán ngán cuộc đời. Nhưng vẫn phải cố gắng sống tốt dù người xung quanh có thế nào, với hi vọng “mỗi ngày một cử chỉ đẹp góp phần cải thiện thế giới ngày một tươi đẹp hơn”. À đúng rồi, thầy có nhắc con viết thư pháp đẹp là một chuyện, còn phải biết chọn màu chữ sao cho nổi bật được ý nghĩa. Vậy chữ Tâm mình viết màu gì thầy nhỉ? Màu đen như ngày thường được không?
- Hôm nay, thầy sẽ hướng dẫn con viết bằng kim tuyến chứ không viết mực Tàu như bữa giờ nữa. Con là giáo viên tương lai nên cần đặt chữ “Tâm” lên trên hết. Một cô giáo không thể hoàn thành tốt công việc của mình nếu không có chữ ấy. Bây giờ thầy chọn cho con tờ giấy màu đen làm nền và hũ kim tuyến màu hồng với ý nghĩa: giữa một xã hội với những cám dỗ đen tối đang bủa vây: tiền bạc, danh vọng, địa vị… con vẫn phải sáng lấp lánh như những viên kim tuyến màu hồng này trên phông nền đen tối ấy. Con gái hãy nhớ: chữ “Tâm” phải ở trên hết và tỏa sáng chứ đừng để màu đen kia vùi lấp nhé con! “Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến”. Con cố giữ lấy để sống phục vụ, yêu thương, sáng danh là người con của Chúa, làm chứng cho Đức Ki-tô trong môi trường con sẽ sống và làm việc. Mình là người Công Giáo, Chúa đặt lương tâm như một lề luật để ta biết làm lành, lánh dữ. Thầy hi vọng con gái sẽ giữ lấy những điều thầy nói.
“Ôi! Thầy đáng kính của con! Từng lời, từng chữ như in, khắc, chạm sâu vào tâm trí con. Mỗi lời thầy dạy, là những giây phút con như được “đốn ngộ” thêm nhiều điều. Hành trang con bước vào đời sẽ là kiến thức con học được trên giảng đường và chữ “Tâm” kia của thầy”. Nó muốn thốt lên thật lớn trước tấm gương đạo đức tuyệt vời của thầy. Xúc động, nó cất tiếng thủ thỉ:
- Con cám ơn thầy rất nhiều! Lời thầy giảng dạy, con xin mãi trọn đời khắc ghi. Con sẽ cố gắng sống, phục vụ tha nhân hết khả năng của mình để làm chứng cho tình yêu của Đức Ki-tô. Dù lòng người đổi thay hay thế gian phũ phàng, con gái vẫn tin tưởng chữ Tâm sẽ cảm hóa và biến đổi được tất cả.
Rồi thầy nhẹ nhàng hướng dẫn nó từng nét thanh, nét đậm, chỗ nhấn hoặc nhấc cọ… Để rồi cuối cùng, khi rắc một lớp kim tuyến lên trên, chữ Tâm thực sự nổi bật và tỏa sáng giữa phông nền đen. Thật tuyệt vời! Như ngọn nến chiếu sáng giữa màn đêm đen tối của lòng người hôm nay!
Bài học ấy suốt cả cuộc đời nó sẽ không bao giờ quên. Bây giờ nó đã đứng trên bục giảng, là người giáo viên thực sự rồi. Nó đang cố gắng thực hành những lời thầy dạy năm xưa bằng cả tấm lòng yêu thương, chăm sóc học trò, bằng những bài đạo đức về cuộc sống nó truyền lại cho thế hệ sau. Nỗi bâng khuâng, hạnh phúc ùa về trong tâm trí khi nó nhớ về thầy:
Cám ơn thầy đã cho con dòng chữ
Cho tình thương lai láng giữa dòng đời.
Mã số: 14-030
SA MẠC CUỘC ĐƠI!
Đời người là một cuộc hành trình, là một chuyến đi dài, đi và đi như thế nào đó là do mỗi người tự định đoạt lấy. Nhưng trên chặng đường ấy gặp ai và phải đương đầu với việc gì thì đố ai biết được?
Tôi cũng như tất cả mọi người được giao cho chiếc bị với mớ hành trang và quày quả bước đi. Hành trang là một khói óc, hành trang là một trái tim và hành trang là tiếng thì thầm giục gọi của lương tâm. Nó như chiếc la bàn, giúp tôi biết định hướng chuyến du hành đời mình.
Lúc còn bé con đường ta qua được trãi trước những miếng lót, có người mai mắn thì đó là thảm nhung, có người kém mai mắn hơn thì đường lát bằng xi măng, người kém mai mắn nhất thì trầy trụa với những bước trơn chợt từ thuở ấu thơ. Nhưng tất cả đều phải bước đi trên con đường của riêng mình.
Dọc con đường đi, được gặp nhiều người với nhiều thái độ khác nhau, vui tươi niềm nở mở lời chào, cái vẫy tay vội vả, môi mĩm nhẹ nụ cười, cái xiết tay, thậm chí cái bám chặt tay đỡ nhau qua lối trơn sìn bùn.
Trên lối đi có nắng sớm, mưa chiều, có trăm hoa đua nở, có cỏ xanh tươi, có đồng khô héo úa, có chim muôn ca hát và cũng không dè chừng thú dữ lăm le.
Đi và đi như thế nào để cảm nhận hành trình cuộc đời mình hạnh phúc và mang đầy ý nghĩa nhất là do có nhìn vào chiếc la bàn mà mình có sẵn trong tay hay không?
Tôi lắm lúc ngủ gục trên từng bước chân mình, chiếc la bàn mất hút khỏi tầm tay, con tim heo úa không nhựa sống, trí óc mòn mỗi vì những va vấp đời thường, nên cảm nhận những bước chân lỏng lẻo, nhạt nhẻo khi bước đi.
Lúc đấy tôi gọi “Sa Mạc cuộc đời”
Làm gì khi bước vào sa mạc?
Đứng trước sa mạc mà mình phải băng qua có người đuối sức và cảm thấy ngán ngẫm. Có người lại chùng chân, ao ước mình được đứng mãi dù trên thảm cỏ xanh, hoặc ở lại trong túp lều trọ ven đường. Có người lại chọn giải pháp rên rỉ, kêu gào khóc lóc. Còn không ít người cắn đến rướm máu đôi môi để chịu đựng, giẩm lên cát nóng bỏng thậm chí cháy xém gót chân để băng qua.
Một giải pháp tròn trịa để tôi nhìn vào và bước đi đó là:
Một anh chàng chỉ 33 tuổi đã chọn việc ở lại sa mạc cuộc đời mình bốn mươi đêm ngày để ăn chay cầu nguyện. Hay thật!
Việc ăn chay cầu nguyện đã thanh lọc tâm hồn Người, để rồi khi bước ra khỏi đó bóng đêm ập đến, sự dữ vây tứ bề nhưng ánh sáng của vinh quang đã bao trùm Ngài và chiếu tỏa, bóng tối dần dần bị mờ tan, bị đẩy lùi.Nhẹ nhàng lướt qua thập giá đau khổ để tiến đến vinh quang phục sinh.
Dìm mình vào việc cầu nguyện, để hấp thụ những tia sáng, để thông phần với Người, để được chia chát cái phần rực sáng, để được đánh dấu ấn, khi bước vào bóng đêm tia sáng lại phát ra chiếu dọi lối đi. Và rồi cũng sẽ được sống mãi trong ánh sáng phục sinh của Người.
Phải bước qua sa mạc cuộc đời lắm lúc như là một hồng ân vì có lầm lũi bước đi trong bóng tối, mới biết học cách nổ lực đi tìm ánh sáng và muốn ở lại mãi trong ánh sáng.
Có nếm cảm đau khổ, mới thấy cửa Vườn Giêt-xi-ma đang rộng mở mời gọi nhân trần đến thông phần, đến chia chát lợi lộc.
Thánh giá nở hoa vì do Chúa tôi đã dùng chính máu mình tưới lên. Để tôi đước đón nhận phần ân phúc ấy mà làm lộ phí trên đường đời!
Sa mạc đời người có héo úa hay nở hoa, là do tâm tình đón nhận!
BẢN THỂ LỆ GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG
Cập nhật cho cuộc thi lần thứ hai - 2014
GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG được Ban mục vụ Văn Hóa và Truyền Thông Giáo phận Qui Nhơn thực hiện trong khuôn khổ dọn mừng kỷ niệm 400 năm Tin Mừng của Chúa đến với giáo phận Qui Nhơn (1618-2018), nhằm đào tạo cho Hội Thánh Việt Nam nhiều cây bút văn xuôi. Thể lệ, chủ đề và cơ cấu tưởng thưởng của cuộc thi được ấn định như sau.
I. THỂ LỆ
1. Cuộc thi kéo dài sáu năm, năm năm đầu (2013-2017) mỗi năm trao giải một lần, năm thứ sáu (2018) dành cho những người đã đạt giải trong các năm trước và trao giải tổng kết.
2. Cuộc thi dành cho các bạn trẻ Công Giáo, trong cũng như ngoài giáo phận Qui Nhơn, dưới 40 tuổi (năm dự thi – năm sinh theo sổ rửa tội ≤ 40). Người đã đạt giải một lần, các năm sau có thể dự thi tiếp, dù đã hơn 40 tuổi. Các bạn trẻ dự tòng cần có chứng từ đang theo học giáo lý dự tòng.
3. Thể loại: Truyện ngắn, mỗi truyện không quá 3000 từ. Không nhận truyện phóng tác. Phải là sáng tác mới, chưa đăng báo, website hay blogs và chưa gởi dự thi ở bất cứ đâu.
4. Truyện lấy ý từ một tác phẩm khác, xin ghi rõ xuất xứ tác phẩm gốc. Nếu bị phát hiện sao chép của người khác hoặc dựng lại theo ý tác phẩm khác mà không ghi xuất xứ, sẽ bị loại và cấm thi các năm tiếp theo.
5. Đề tài: Truyện cần mang nội dung Kitô giáo, có tác dụng xây dựng đức tin cho Dân Chúa và loan báo Tin mừng cho người chưa biết Chúa.
Mỗi năm, mỗi tác giả có thể tham gia tối đa 05 bài dự thi, có thể gửi chung một lần hoặc nhiều lần.
6. Chỉ nhận bài dự thi qua điện thư email, gửi attach file với định dạng . doc (word), không nhận bài gởi qua đường bưu điện.
7. Đầu bài dự thi phải ghi rõ: họ và tên, bút danh, năm sinh, rửa tội tại đâu, năm nào, địa chỉ nhà, giáo xứ, giáo phận, số điện thoại liên lạc, địa chỉ email. Dù đã gởi nhiều email dự thi, đầu mỗi bài đều cần ghi như thế. Những bài thiếu các chi tiết này sẽ không được nhập hồ sơ dự thi.
8. Mỗi bài dự thi sẽ được nhập hồ sơ theo lần gởi đầu tiên, mọi chỉnh sửa về sau đều không được chấp nhận.
9. Địa chỉ nhận bài, xin gởi cùng lúc về 2 điện chỉ email: tinmunggiesu@gmail. com và gopnhattho@yahoo. com.
10. Thời gian nhận bài: trước ngày 01-3 mỗi năm. Những bài gửi về muộn hơn sẽ được đưa vào hồ sơ dự thi năm sau.
11. Tưởng thưởng: Mỗi năm sẽ có 06 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng, theo cơ cấu và sinh hoạt như sẽ nói dưới đây.
12. Kết quả cuộc thi hằng năm sẽ được công bố ngày 15-8 mỗi năm
13. Lễ trao giải vào ngày 22-9 mỗi năm.
14. Những tác giả được vào chung khảo mà không đạt giải sẽ được hỗ trợ một phần tiền xe về dự ngày họp mặt trao giải.
15. Các thông tin về cuộc thi sẽ được đăng trên trang mạng giáo phận Qui Nhơn http://www. gpquinhon. org và những trang mạng ủng hộ chương trình này.
16. Các tác phẩm đạt giải sẽ được in thành tuyển tập do Ban Tổ Chức giữ bản quyền.
II. TƯỞNG THƯỞNG
Cơ cấu giải thưởng
Mỗi năm, có 6 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng. :
- một giải nhất: 20. 000. 000 $VN
- hai giải nhì, mỗi giải 12. 000. 000 $VN
- ba giải ba, mỗi giải 8. 000. 000 $VN
- 15 giải triển vọng, mỗi giải 3. 000. 000 $VN
Tuyển tập truyện ngắn riêng
Ngoài phần thưởng bằng tiền mặt, những tác giả đạt giải, nếu có nhiều truyện khác có giá trị, sẽ được Tủ Sách Nước Mặn hỗ trợ xuất bản một tuyển tập riêng dưới 200 trang với những truyện ngắn mang nội dung Kitô giáo.
Những tác giả không đến dự lễ trao giải sẽ chỉ được nhận 50% tiền giải thưởng và không được hỗ trợ in tuyển tập riêng.
III. TƯỞNG THƯỞNG DÀNH CHO ĐỘC GIẢ
1. Bình chọn
Các truyện dự thi đã qua vòng sơ tuyển sẽ lần lượt được đưa lên mạng internet. Mời độc giả tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
2. Giúp phát hiện trường hợp sao chép
Những độc giả giúp phát hiện đầu tiên những bài dự thi sao chép của người khác (xin ghi rõ xuất xứ bài gốc) sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Ban Tổ Chức chân thành biết ơn sự giúp đỡ của các ân nhân. Các hỗ trợ tiền bạc hoặc hiện vật cho cuộc thi xin gởi về: Linh mục Võ Tá Khánh, 116 Trần Hưng Đạo, TP Qui Nhơn – Email: gopnhattho@yahoo. com – Điện thoại: 0935-424-449.
Qui Nhơn, ngày 21-9-2013
(Điều chỉnh ngày 04-10-2013)
TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC
Lm Gioan Phêrô Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự)
Trưởng Ban MV Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn
Thưa quý độc giả và quý tác giả,
Giải Viết Văn Đường Trường do Ban mục vụ Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn khởi xướng. Nó muốn gợi lên nơi bạn trẻ Công Giáo ý định thử viết một truyện ngắn có nội dung Kitô giáo, rồi từ đó dần dần sẽ khám phá ra mình có thể trau dồi khả năng này để phụng sự Thiên Chúa và Giáo Hội.
Chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu 6 truyện dự thi mới. Xin mời quý độc giả cùng theo dõi, đánh giá và tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Quý độc giả có thể gửi phiếu bình chọn ngay sau từng đợt bài được giới thiệu. Khi đọc các truyện ở các đợt tiếp theo, nếu thay đổi ý kiến, có thể gửi phiếu bình chọn mới. Chúng tôi sẽ tính theo phiếu gởi sau cùng của mỗi người.
Ước mong quý độc giả khắp nơi tích cực vận động để có thêm nhiều tác giả hưởng ứng và tiếp tục tham gia cuộc thi.
Xin mời xem Bản Thể Lệ Giải Viết Văn Đường Trường đính kèm cuối bản tin này.
Nhân đây Ban Tổ chức xin thông báo: Để tạo điều kiện cho các tác giả có thời gian hoàn thiện bản thảo dự thi, thời hạn nhận bài của giải 2014 được gia hạn kéo dài thêm một tháng, hạn cuối nhận bài đến hết ngày 31-3-2014.
Xin trân trọng giới thiệu 6 tác phẩm dự thi mới được chọn qua vòng sơ tuyển. Một số bài không lọt qua vòng loại do chưa phải là truyện ngắn (chỉ mang dạng chia sẻ tâm tình, tùy bút hoặc kể chuyện), do kết cấu lủng củng, chưa thống nhất ý tưởng, hoặc do lấy lại câu chuyện từ một truyện nào đó (phóng tác chứ không phải là sáng tác). Nếu quý độc giả phát hiện bài nào chỉ là phóng tác từ một tác phẩm khác đã công bố, xin vui lòng cho Ban Tổ chức được biết.
Xin chân thành cám ơn các trang truyền thông Công Giáo đã và đang hỗ trợ truyền bá chương trình này, cám ơn quý tác giả đã gửi bài tham gia và cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi cuộc thi. Nguyện xin Thiên Chúa giàu lòng thương xót chúc lành cho tất cả chúng ta.
Qui Nhơn, ngày 15-03-2014
Thay lời Ban Tổ chức
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
BÀI DỰ THI
Mã số: 14-025
CHỮ HIẾU
-Khổ quá, khổ quá.
Bà lão vẫn thường hay than thở như thế. Căn phòng chật chội nhuốm màu vàng lờ nhờ của bóng điện. Suốt ngày trong cái không gian o bế đến ngộp thở ấy là tiếng khò khè, gắt gỏng, kêu ca của một bà lão đã ngoài tám mươi tuổi. Đãng trí, mắt kèm nhèm, lại thêm chứng đau lưng của tuổi già, nên bà hay cô đơn lắm. Cứ chiều chiều, bà lại chống gậy lang thang ra công viên, rồi ngồi thẫn thờ ngẫm ngợi vào quá khứ, về mối tình đầu, về những ngày tháng đẹp tươi nhất.
Già rồi nhưng vẫn hay khóc. Bà dễ tủi thân lắm. Trái tim bà vẫn cả tin và dễ tổn thương cho tới tận bây giờ. Mỗi khi bị con cháu trách mắng về tính hay giận, hay quấy là bà lại lủi thủi tìm vào góc phòng, ôm mặt khóc. Bà có muốn thế đâu.
Cái tính nhõng nhẽo, hay quấy của bà có từ hồi nhỏ, nhưng được chiều chuộng nhất là cái hồi bà yêu. Thời son trẻ ngập tràn sắc đẹp ấy xoẹt qua đời bà như một ngôi sao băng trong bầu trời đêm quang đãng. Từ ngày nhỏ, bà luôn ao ước được nhìn thấy sao Chổi hai lần trong đời. Bởi sao băng mong manh quá, ngắn ngủi quá, không bõ xem. Bà muốn nhìn thấy sao Chổi một lần nữa, ngôi sao Chổi kì vĩ, đầy hư ảo mà bà đã coi từ hồi bà còn nhỏ.
Tiếng dế kêu đêm thật não nùng và lạc lõng trong công viên. Xa xa phía bờ hồ, thỉnh thoảng có những chiếc ô tô lao vút đi, rồi lại tiếng dế kêu văng vẳng thấu đến từng cánh hoa kẽ lá. Những con dế như thi nhau tấu lên bản nhạc réo rắt. Màn đêm như đè nặng xuống mảnh đất này. Tiếng dế như xé đêm ra từng mảnh, từng sợi. Tiếng dế le lắt, tiếng dế quay quắt, tiếng dế thao thiết xiết bao.
Từ lúc nào, bà luôn coi dế là bạn. Những người bạn tí hon ấy như các nhạc công trình diễn miệt mài không lấy tiền thù lao vậy. Bà vẫn hay lững chững chống gậy vào thăm thú công viên, cốt cũng là để được nghe tiếng dế. Tuổi già cũng không nhiều thú vui. Nhiều cảm giác vẫn khiến bà nhớ về hồi trẻ đẹp. Mỗi lần như thế, bà chạnh buồn. Cô đơn, cô đơn, cô đơn, điều ấy đáng sợ nhưng lại như những hạt bụi luôn vây bủa lấy bà. Nhiều khi bà muốn rũ bỏ cảm giác ấy đi mà không được, bà lại lặng lẽ tìm đến làm bầu bạn với tiếng dế, với bóng đêm, với sao trời. Dần dà rồi cũng quen, bà tự biết chẳng mấy ai thích người già, nên mọi buồn khổ lại tự âm thầm chịu đựng một mình.
Có lần, con trai bà bảo: Mẹ già rồi, đừng ra ngoài nữa, nhỡ cảm gió ra đấy thì làm sao. Bà bảo: Cứ để ta đi lại cho nó khuây khỏa. Nó bảo: thôi mẹ ở nhà cho lành, không thì lại khổ con khổ cháu. Bà im lặng, đóng cửa vào căn phòng kín gió tù túng. Bà bảo cái phòng như cái chuồng nhốt người vậy, khó chịu lắm. Con dâu bà bảo: Mẹ khó tính lắm, ai mà chiều được. Bà kêu: Giê Su Maria, sao già lại nhục thế này, người ta cầu chúc cho nhau sống lâu trăm tuổi làm gì thế không biết.
Rồi bà lại tự đấm vào phía lưng mình. Những cơn đau lưng kéo dài từ ngày này sang ngày khác khiến bà hay ri rỉ nước mắt. Cơn đau còn như lây vậy, đau lưng rồi đau lên vai,lên gáy, lên đầu, đau tỏa xuống các tay chân. Trông bà lấy bấy, bủn rủn là thế, nhưng sức bà cũng đã cố gắng hết sức để gượng gạo đi rồi. Chứ thực ra bà chỉ muốn nằm bẹp một chỗ thôi, lúc nào cũng cảm thấy trong người bí bách, xương cốt rão ra, chỉ còn chút tàn lực của tuổi già. Đôi lúc bà vẫn tự quở: Sao ta dai chết thế? Bà cũng hay nghĩ về tuổi thơ. Lúc còn nhỏ, bà luôn mong ước một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn, nhưng càng sống lâu, bà càng thấy đời nhiều khốn nạn hơn. Giờ ai cũng bảo bà lẩm cẩm, dạy con cháu khác người. Bà bảo: Đôi khi trong cuộc sống người tốt sống cạnh người tốt không tốt. Người ta bảo bà dở hơi. Bà lại bảo: Người tốt phải ở gần người xấu sể cảm hóa người xấu, không chẳng bao giờ người xấu có thể hoàn lương được cả. Người ta bảo bà chập mạch. Ai lại cho con cháu đi chơi với đám bạn lêu lổng, hư hỏng đâu. Bà cười mỏm mẻm: Rốt cuộc chẳng ai hiểu được già này.
Lớp trẻ ở đây mấy ai biết bà từng là cô gái hát quan họ đầy quyến rũ, mê hoặc ngày xưa. Làng trên xóm dưới ùn ùn kéo về xem quan họ mỗi khi làng bà tổ chức. Cứ tới lượt bà hát là mọi người như lặng đi, giọng hát mê hồn ấy đã thấm cả vào một thế hệ yêu quan họ trong khu vực này, ấy thế mà…
Bà vẫn đi dạo hàng ngày, dành nhiều thời giờ để suy nghĩ về tuổi trẻ, về những khoảng lãng mạn thời con gái. Cảm giác ấy, cái cảm giác được nhiều người tôn trọng, săn đón, ngưỡng mộ rất sung sướng. Bà mơ màng dựa vào ghế đá ngoảnh ra mặt nước hồ lãng đãng ánh hoàng hôn. Khóe mắt bà đã ri rỉ những ngấn nước mắt lòa nhòa. Anh nắng chiều tàn làm óng ánh lên những giọt nước nhỏ nhoi ấy. Cảm giác cô đơn quấn xoắn lấy bà.
Có lẽ ta sắp bị đuổi ra đường mất. Bà tự nhủ. Con dâu ngày càng hay cáu giận, mắng mỏ, còn con trai thì bận bịu tối ngày, chằng còn quan tâm bà nữa. Hôm trước, con dâu bà bảo: Mẹ sống ở nhà này như người thừa ấy. Có lần khác nó lại bảo: Mẹ bẩn lắm, hôi hơn con khỉ rồi, cả tháng rồi chưa tắm. Thì bà cũng nghe câu được câu chăng, mỗi lần như thế bà im lặng. Tuổi này giờ gắng gượng mà đi được là tốt rồi, mấy ai giữ được cho thân thể luôn thơm tho chứ? Giá như, giá như… cái thời son trẻ của bà đã lùi lại quá xa, sẽ chẳng bao giờ bà có thể quay lại được thời đó. Mỗi lần bà muốn quay lại, con cái lại mắng bà nhõng nhẽo, trẻ con, làm khổ con cháu ai mà chiều được.
Một buổi sáng cuối mùa đông năm ấy, cô con dâu hét toáng lên: Mẹ ra khỏi nhà đi, ỉa đái gì mà tung tóe hết ra phòng thế này, khổ quá. Bà vừa đi vệ sinh vào cái bô, không biết túng tấng thế nào mà cái bô bị úp ngược, bà cứ khều khều những mãi không lật lên được. Cô con dâu nhìn cảnh ấy nên không kìm lại được, lại thốt lên: Bà chết đi thì hơn, sống chỉ làm người khác khổ.
Bà ngờ ngệch vớ lấy cái gậy, thập thùi bước đi, bỗng ngã dúi xuống, mặt bà úp vào cái bô rồi trượt xuống nền đất. Mùi thối sặc sụa như oạc ra từ bể phốt. Quần áo, mặt mũi bà nhoe nhoét phân. Bà nằm như một con mèo già sắp chết. Luống cuống quá, bà lại bò ra cái chỗ vòi nước. Cô con dâu đóng sầm cửa lại, ậm ọe hồi lâu.
Năm hôm sau, người ta thấy một bà cụ già nằm bất động ở cổng ngôi nhà thờ một giáo xứ gần đó, người bà cứng đờ, lạnh toát. Mấy giáo dân đi lễ về, nhìn thấy liền khênh bà về nhà sơ cứu, nhưng dường như đã quá muộn. Con trai, con dâu bà tìm đến, lu loa, gào khản cả tiếng như tranh nhau:
-Ối mẹ ơi! Sao mẹ lại bỏ nhà mà đi.
- Mẹ ơi là mẹ! con là kẻ bất hiếu.
- Mẹ ơi! Sao mẹ lại chết đường chết chợ thế này, sao phút cuối không ở bên chúng con.
- Mẹ ơi! Chúng con hưa sẽ chăm chỉ làm ăn, sẽ vâng nghe lời mẹ lúc còn sống, lo lắng cho mẹ mồ yên mả đẹp.
Những lời có cánh trong đau buồn như vút tận trời xanh. Hàng trăm lời hứa hẹn, khóc nấc của cặp vợ chồng cũng khiến họ hàng khóc nấc theo. Dân làng không ngờ bà lại có con dâu ngoan hiền, thương mẹ đến thế, người con trai có hiếu đến thế…
Chiếc quan tài đã sang ngày thứ hai, phía đầu quan tài vẫn có một mặt để ai vào phúng viếng có thể nhìn thấy mặt bà lần cuối. Người con dâu oặt oẹo, tóc xù ra vì đã khóc ròng suốt từ lúc nhận được tin dữ.
Đám tang bà đông. Cả làng đưa tiễn bà vào nhà thờ để làm lễ đưa chân cầu nguyện cho linh hồn bà sớm được hưởng phúc thiên đàng. Vị linh mục đang oang oang giảng về những đóng góp quan họ trước đây của người quá cố, bỗng đánh rơi kính vì một điềm lạ lùng. Cả nhà thờ nhỏm dậy, nháo nhào chạy xúm vào một chỗ. Bà lão đã ngồi nhỏm dậy, nắp quan tài kênh sang một bên. Người ta đã quên đóng đinh nắp áo quan. Tiếng trẻ con khóc thét vì sợ. Ai cũng ngạc nhiên vì sự việc lạ lùng. Nhiều người tin Chúa đã làm phép lạ ngay giữa nhà thờ. Có kẻ xầm xì: Suýt nữa thì chôn sống bà lão.
Bà ngã ra nền nhà thờ, ngước lên nhìn gian Cung thánh, làm dấu liên hồi, miệng lắp bắp, mặt tái mét.
Cả nhà thờ vòng trong vòng ngoài những người, không còn ai khóc nữa. Quả là một sự lạ cho toàn bộ con chiên của Chúa nơi đây. Bà lão vẫn chưa nói được. Người ta đưa bà ra cấp cứu. Cái tin người chết sống lại nhanh chóng được lan truyền, bà bỗng dưng nổi tiếng, được nhiều người phỏng vấn.
Rồi cũng nhạt dần. Không khí trong gia đình lại trở lại như xưa. Người con dâu vẫn tiếp tục chì chiết mẹ chồng. Người con trai vẫn chơi bời nhậu nhẹt tới khuya khoắt mới về nhà. Có ngày họ chẳng cả nhìn hay hỏi thăm bà lấy một tiếng. Ngày ngày trôi qua trong quạnh vắng, bà rất nhớ tiếng dế, nhớ những kí ức tuổi thơ. Bà đã bị liệt một nửa người. Mấy ngày liền, khi không còn nghe tiếng mẹ gắt gỏng, rên hừ hừ nữa, đôi vợ chồng mới khẽ khàng đẩy cửa vào. Một cảnh tượng đầy ái ngại trong căn phòng đã đập vào mắt đôi vợ chồng đã trung niên. Chẳng là, họ đã trải vải mưa xuống dưới chiếu của bà, và để sẵn đồ ăn, sữa, hoa quả hai ngày nay cho bà cụ. Giờ thì nước tiểu và phân lấm lem xuống chiếu, chảy cả lên mái tóc rối lòa xòa của bà. Mắt bà nhắm nghiền, ruồi tranh nhau bâu lên mặt, khóe mắt bà vẫn có đường nước bé xíu mờ mờ chảy xuống chỗ nước tiểu rỉ loang khắp chiếu. Trong im lặng, đôi vợ chồng ngán ngẩm nhìn nhau. Hai ngày tiếp theo bà cũng không ăn được gì, ai hỏi gì bà cũng không nói được. Họ hàng lại xúm xít xung quanh. Lại hỏi thăm, bàn tán, rồi ra về trong tâm lí nặng nề. đến một ngày cuối tuần, khi tất cả mọi người đang lo lắng nhìn khuôn mặt đã hết thần sắc, quầng mắt đen sì, môi thụt hẳn vào trong của bà, thì người ta đã được nghe câu nói cuối cùng của bà. Sau một loạt câu hỏi không có tín hiệu trả lời:
-Bà uống sữa nhé
-Bà đi tiểu nhé
- Thay quần áo cho bà nhé
…
Rồi đến câu:
-Xức dầu cho bà nhé. Bỗng như có một buộc vào cổ áo kéo bà lên vậy, bà hơi nhích, khẽ rên lên:
-Ừ, tạ ơn Chúa.
Khi mặc áo phép, và chịu phép sức dầu, ăn năn về những việc làm hồi còn sống, bà làm dấu thánh giá, hôn tượng Chúa Giê- Su, rồi thở hắt lên một cái thật mạnh. Bà đã ra đi mãi mãi. Đám tang bà lần này, rất ít tiếng khóc. Con cháu bà cũng chẳng đông, dù đã bao lần khi còn sống bà dặn dò các con cháu bà hãy sinh sôi thật nhiều. Đêm đó, những ngôi sao băng rơi nhiều như để chào đón một linh hồn thánh thiện đã về trời. Tiếng dế trong nghĩa trang cũng ngân lên buồn bã, chỉ vắng ánh sao Chổi mà thôi.
Mã số: 14-026
BÁC SĨ ĐỪNG
-Tặng bạn tôi, một người con ưu tú của Giáo Hội, anh Paulus Lê Sơn. Xin được cúi đầu trước các thiên thần bé bỏng không được chào đời.-
Câu chuyện ấy xảy ra vào một ngày cuối thu.
Đừng là một bác sĩ giỏi. Ngay từ lúc trẻ, chị đã là thủ khoa đầu vào của hai trường đại học danh tiếng. Thời gian đó, Đừng đã đoạt một suất học bổng sang Pháp. Con đường học vấn của chị được coi là sáng sủa nhất ở vùng này. Khi trở về, chị là một bác sĩ trẻ năng động, được điều về bệnh viện tuyến trung ương. Vài năm sau, chị đã là phó khoa sản của một bệnh viện, rồi chị mở một cửa hàng tư nhân về sức khỏe sinh sản.
Nhưng rồi, thấy mình có khả năng trong trong việc giúp các thai phụ bảo toàn được danh dự, hay giữ cân bằng dân số vì hạnh phúc gia đình, chị đã chuyển sang một công việc mới, ấy là một bác sĩ phá thai. Với trí tuệ và năng lực của một người có tài, chẳng mấy chốc chị trở thành một người bác sĩ giỏi giang trong công việc hàng ngày của mình.
Quả vậy, một khi đối mặt với những lời xì xào bàn tán không hay về nghề phá thai. Chị lại tự nhủ: Ôi dào! Các ông các bà cứ nghĩ thế, chứ tôi không làm có vẫn có người người khác làm đó thôi, ai có giỏi thì làm đi”. Cứ thế, mỗi ngày hàng chục cô gái ra vào phòng chị để được giải quyết những cái thai mà họ cho là ngoài ý muốn kia.
Nhà Đừng giờ đã to nhất con phố này rồi, mà khách hàng thì không thấy có xu hướng giảm. Chị rất bằng lòng với công việc hàng ngày của mình: nhiều tiền, lại chẳng quá vất vả. Có một điều khiến chị hơi băn khoăn là những thai nhi sau khi được chị giải quyết xong kia, thường không phải ai cũng lấy lại, mà cứ tồn để đống trong những túi màu đen ở thùng rác. Thai nhỏ chị còn xả trong bồn cầu được chứ thai to thì chịu. Những ngày mùa hè, mùi tanh của máu, cái lạnh của âm khí xoắn quyện như ngấm cả vào tường nhà. Thật may mắn khi gần đây chị mua được hẳn bốn con chó béc- giê về giữ nhà. Thế là số thai nhi kia cứ mỗi cuối ngày lại được quẳng cho lũ chó xâu xé loạn xạ sau vườn nhà. Đôi lúc chị cũng cảm thấy có chút gì đó hơi nhẫn tâm. Nhưng kệ. Với chị, đống thịt vụn kia thì chôn hay vứt đi, hay quẳng cho chó thì cũng khác gì nhau. Điều quan trọng là sự sống trong đó đã chấm dứt. Bởi thế hàng ngày chị vẫn thản nhiên cho lũ chó ăn mà không mảy may suy nghĩ quá nhiều.
Có một chút xáo trộn nhỏ, khi mà có mấy người phụ nữ nghèo thỉnh thoảng lại ghé qua có nhã ý xin chị những thai nhi bị ruồng bỏ kia để mang về chôn cất và cầu nguyện. Chị bỏ ngoài tai tất cả.
Ôi giời! Cho họ thì lấy gì cho chó nó ăn, thịt bò bây giờ cũng không rẻ. Chị thầm nhủ vậy.
Chị muốn tống cổ họ ngay khi thấy họ rụt rè ở phía cửa nhà mỗi lần.
Chị lại nghĩ: không biết họ đi làm thế có được ai cho tiền không biết, đội nắng đội mưa đạp xe từ đâu đến đây làm gì cho khổ thế không biết.
Chị không mắng chửi họ ra mặt nhưng nhất định không muốn cho họ chạm mũi bàn chân đến hàng gạch đầu tiên ngoài cổng nhà mình.
Những con người nghèo kiết xác kia không đáng để mình bận tâm. Đừng luôn tự dặn lòng mình như vậy. Chị còn phải trau dồi thêm kinh nghiệm thực tế và từ đồng nghiệp để làm sao cho những bà mẹ kia không bị nhiễm trùng hay bị vô sinh. Công việc phá thai với chị giờ rất đơn giản, chỉ cần bỏ ra thời gian bằng bữa cơm trưa là có tiền triệu bỏ túi ngay. Với sự giỏi giang và tinh thần ham học hỏi của mình, chả mấy chốc địa chỉ nhà Đừng nườm nượp những cô gái trẻ qua lại để giải quyết hậu quả. Có đôi người còn trở lại cảm ơn chị hậu hĩnh vì đã bảo toàn danh dự cho họ hay giúp họ không phải làm mẹ của những đứa con khuyết tật. Chị từ chối, với chị như thế cũng là đủ rồi.
Nhưng lạ thay, có nhiều đêm những vong hồn thai nhi lại hiện lên trong những giấc ngủ của Đừng. Chúng hướng ánh mắt cầu xin, van vỉ chị mà không thể nói được. Chị cũng sợ, nhưng tỉnh dậy rồi, công việc kia lại như một thói quen, chị lại tiếp tục làm như không có gì xảy ra.
Mấy con chó nhà chị giờ to béo, mắt quắc lên, trán co lại, bộ lông mượt chuốt dài ra. Chúng được như thế cũng nhờ rất nhiều vào số sản phẩm tận dụng được từ nghề nghiệp của Đừng. Mặc cho người ta kêu mình làm như thế thì thất đức, không có hậu, hay bị quả báo đi chăng nữa, chị vẫn không ngừng học hỏi. Học để làm sao cho những sản phụ được an toàn, tiếp tục làm mẹ khi muốn. Nhất là những ca mà ảnh hưởng tới tính mạng người mẹ, chị cẩn thận lắm. Chị hãnh diện vì được khen là bác sĩ giỏi, là không bao giờ lấy tiền trả ơn sau khi họ được giải quyết hậu quả. Nhiều người chê, nhiều người khen, chị chẳng hề nao núng gì.
Ngoảnh đi ngoảnh lại, chị cũng đã ba mấy rồi còn gì. Chị chợt nghĩ, có lẽ vì quá đam mê nghề nghiệp mà quên đi thiên chức của một người mẹ. Chị cũng đã cưới chồng được mấy năm rồi còn gì. Nhưng mà có cũng như không, chồng chị có bao giờ quan tâm chị đâu. Có mấy ai hiểu cho chị được. Mấy ai yêu nghề hơn chị được. Nhưng dù sao cũng cần phải có con, quyết là làm, chị đã có thai ngay sau đó không lâu.
Những ngày bụng lộ to ra, Đừng tạm nghỉ làm việc. Cứ sáng sáng đi chợ, chị không quên mua thịt bò về cho lũ chó. Mấy con chó không còn mượt đẹp như trước nữa. Chúng nô đùa, gầm gừ, đuổi nhau khắp vườn.
Rồi chị sinh được một bé trai. Cảm giác hạnh phúc dâng tràn. Họ hàng, bạn bè tới chúc mừng nhiều, quà cáp nhiều. Có mỗi một bà già làm cho chị không được thoải mái lắm. Đó là bà dì góa của chị. Bà bảo:
- Được làm mẹ rồi, giờ bỏ cái nghề này đi con nhé.
- Con không làm vẫn có người khác làm dì ơi! Xã hội là vậy.
- Con không ân hận chứ?
- Con không.
- Nhưng cái nghề đó thất đức lắm con ơi
- Nghề nào chả như nghề nào hả dì?
- Làm hay không là quyền tự do của con, nhưng con nghĩ mà xem, giết ở trong bụng và giết ở ngoài khác gì nhau? Mang tội đấy.
- Nếu có tội thì đã bị đi tù.
- Con vẫn quyết không ân hận chứ?
- Nhất định không, chả lẽ những bà mẹ nguy kịch tới tính mạng vì thai, không có người như con, chết cả hai, thì tội của ai?
- Còn đa số các ca còn lại thì sao? Con ác lắm.
Cuộc trò chuyện cứ thế làm cho chị cảm thấy mệt mỏi. Chị cảm thấy bức bối trong người, ngồi thụp xuống cái đệm cứng đờ.
- Con đừng làm thế nữa, có nghiệp báo đấy
- Dì về đi. Dì dạy khôn con đấy à
- Học cho giỏi vào, giờ lại hỗn với cả dì nữa.
Bà dì lóc cóc cầm cái nón đi về. Nước mắt bà ướt nhòe. Thỉnh thoảng con bé nó cho mình đồng ra đồng vào, ai ngờ nó lại làm cái nghề này. Dì ấm ức lắm. Muốn về nhà thật nhanh. Bước chân bà liêu xiêu lê ra phía cổng.
-Dì cứ hiền lành quá mức như thế, nghèo là phải.
Chị cố nói với theo như thế. Thằng bé khóc oe oe. Chị vẫn chưa hết bực bội. Thằng bé khóc ngằn ngặt, lại thêm tiếng chó sủa nhộn nhạo, chị cảm thấy ức chế.
Bế con lên mà Đừng cảm thấy bình an quá. Cậu bé ngoan ngoãn khi tìm thấy bầu sữa quen thuộc. Nhìn con âu yếm. Chị hôn nhẹ nhàng lên trán của con. Tiếng béc-giê lại sủa chói lói, át cả vào căn phòng. Cậu bé giật mình khóc thét lên. Chị bế con dậy ra đóng cửa mà ru con ngủ. Miên man nghĩ ngợi, chị lại bị ám ảnh bởi những mảnh tay chân bé xíu. Nhưng chẳng lẽ do thói quen? Thật là chị không cảm thấy quá sợ sệt. Chai đá? Vô cảm? Mạnh mẽ? Nhẫn tâm? Có lẽ nào lại tới mức ấy không? Chị tự vấn lòng mình trong khững hình ảnh kia vẫn cứ nhập nhoằng trong ý nghĩ. Đầy cữ rồi đấy, chị tự nhẩm.
Con đã ngủ, chị nhẹ nhàng đặt con lên chiếc nôi xinh xắn. Chị ra chợ một lát để mua thức ăn cho mấy ngày và mua cả thịt bò về cho lũ chó. Chợ cũng gần nhà. Ở đây mọi thứ đều đắt đỏ. Nhìn những bà bán hàng nhếch nhác quá, luộm thuộm quá. Chị chỉ muốn mua nhanh để về thôi. Lòng trí lúc nào cũng nghĩ về con. Từ khi được làm mẹ, chị đã hạnh phúc hơn rất nhiều. Dù có phải đi ăn xin chị cũng không để con phải khổ. Nhưng dạ đàn bà thường hay nghĩ vụn vặt, chị cũng thế, nhưng dù nghĩ gì, làm gì cũng nghĩ hướng về cho con.
Dòng người đi chợ đông đúc, rộn rạo, tiếng mặc cả, những lời ngọt ngào trao đi đổi lại.
- Mua đi chị ơi, mười một bán mười chị ơi
- Mua cho em với, em bán rẻ cho
- Chị ơi! Cá đi chị, em bán lấy vốn
- Cô ơi! Thịt này, bán lỗ cho cô này.
Nghe những lời mà chị thấy họ giả tạo quá. Biết sao được. Cuộc sống mưu sinh mà. Chị chen chân nhanh để về với con. Mới xa con có một lúc mà nhớ quá. Về tới cổng mà không thấy con khóc. Chị yên tâm lắm. Cất hoa quả vào tủ lạnh, mang thức ăn vào bếp, chị quay trở lại bật ti vi xem.
Màn hình vừa bật, đập vào mắt chị là những thống kê về tỉ lệ nạo phá thai lớn hơn cả số trẻ được sinh ra. Chị thản nhiên bật chuyển kênh khác, có gì lạ đâu, mỗi năm ta còn giải quyết gọn hàng ngàn vụ cơ mà. Nghĩ tới đó chị cảm thấy thỏa mãn lắm. Mấy bác sĩ đủ tài làm được như mình? Hay là người ta bị vô sinh cũng không dám quay lại nhỉ? Mặc kệ họ.
Nghĩ luẩn quẩn, là Đừng lại nghĩ về con. Sau này sẽ cho thằng bé đi du học cho nó được mở mang tầm mắt, không cho nó làm bác sĩ nữa, cho nó làm việc gì đó không bị bàn tán nhiều hơn. Mọi ngày căn phòng phảng phất mùi âm khí, không hiểu sao hôm nay cái mùi chết chóc nồng nộc vào tận phổi. Chị cảm thấy nôn nao trong người, bủn rủn tay chân, hình ảnh hàng vạn sinh linh không vẹn hình hài cứ nhập nhoằng trước mắt. Hay là mình bỏ cái nghề này đi nhỉ? Bỏ rồi thì biết làm gì đây? Làm hay không thì xã hội vẫn thế, đạo đức là cái gì cơ chứ?... hàng chục ý nghĩ bủa vây lấy chị, thật khó chịu.
Mấy phút xoẹt qua. Chị lại nghĩ tới con và giật mình, sao thằng bé ngủ lâu thế. Chạy vội sang phòng, thấy cánh cửa phía sau vườn hé ra, không thấy con đâu, chị sợ hãi. Lẽ nào có ai đó bắt cóc con mình để tống tiền sao, nghĩ thế, chị thót tim. Dáo dác nhìn khắp gầm giường, cánh tủ, chị hốt hoảng xô tung cánh cửa lao ra vườn. Chị thét lên khi nhìn cái cảnh quen thuộc trước đây: Mấy con chó béc- giê đang tranh nhau ăn những mảnh thai nhi. Nhưng lần này không còn là thai nhi nữa, chị tin vào mắt mình dù cho không muốn tin. Chiếc áo bé bỏng của con bị xé nát, một con béc- giê đang ngoạm một cái đầu phía góc vườn. Mấy con kia đang gầm gừ, xâu xé phần còn lại.
-Trời ơi! Con tôi.
Chị nhảy xổ vào đàn chó. Mấy con chó sợ mất miếng mồi, mỗi con giằng một miếng, xé toạc phần cơ thể còn lại. Con giằng chân, con giằng tay với cả tảng thịt dính lủng liểng chạy nhốn nháo. Quả tim bật ra. Chị lấy hết sức chạy tới chộp quả tim rồi đuổi theo đàn chó. Lũ chó gầm gừ nhất loạt phóng thẳng ra ngoài đường lớn, mỗi con ngậm một miếng thịt ngon mà lâu rồi chúng mới được ăn…
Ngày tháng quạnh quẽ buông qua. Đã năm năm bác sĩ Đừng bỏ nghề. Thời gian đầu, chị bị hoang tưởng, cứ mỗi lần đi vệ sinh là có một cánh tay thai nhi to gần bằng mẩu phấn cứ thò lên trên mặt nước của bồn cầu. Dần dà, cứ tang tảng sáng, chị lại tới nhà thờ cầu nguyện rồi trở về nhà tiếp tục bán thuốc. Đến chập tối, chị lại lững chững đi theo mấy người phụ nữ chị hắt hủi ngày trước để đi gom những hài nhi chưa được sống một ngày ngoài bụng mẹ về chôn. Họ vui vẻ hướng dẫn chị tới những cơ sở phá thai nhan nhản trong thành phố này. Công việc thiện nguyện ấy đã giúp chị cảm thấy cuộc đời đáng sống hơn. Chị mới được rửa tội để trở thành một con chiên, một tân tòng trong giáo xứ Cứu Độ. Giờ đây, là mẹ của hàng chục trẻ mồ côi, là một phụ nữ nhiệt tình trong phong trào vận động chống phá thai, Đừng cảm thấy hạnh phúc, dù cho là thiếu đi một cái gì đó mãi mãi.
Mã số: 14-027
MỒ CÔI
Một chiều đầu đông năm 1990, một người phụ nữ khó nhọc đi bộ một mình từ chợ về nhà. Cứ đi được vài bước, chị lại dừng chân ôm bụng, nói thầm : “Con ơi, cố chút nữa gần về tới nhà rồi !”. Chị đã sinh ra một bé gái có cặp mắt đen, nước da phớt hồng và khuôn miệng nhỏ với hai má lúm sâu thật sâu. Ngày ấy, bệnh viện là nhà, phòng hộ sinh là căn buồng có ô cửa nhìn ra gốc tùng diệp già. Bà nội là bác sĩ phụ sản. Sự thiếu thốn ấy đã không đánh gục được sự dẻo dai của người phụ nữ miền sơn cước. Đúng 5h chiều một sinh linh cất tiếng khóc chào đời. Chồng chị vội đi lấy cuốn sổ tay ghi lên đó dòng chữ :" Bé Quyên, sổ lúc 5h chiều ngày 24.11.1990, tức ngày 15.10 năm Canh Ngọ." Cuốn sổ ấy đã trở thành kỉ niệm của chị em nhà nó. Một tuần sau khi sinh, mẹ đã chọn cho nó tên thánh Anna và nó bắt đầu ơn gọi làm người Kitô hữu như thế !
Năm tháng qua đi, con bé lớn lên trong tình thương của bố mẹ và bà nội. Thường thì nó ở nhà với bà nội vì bố mẹ phải đi làm xa. Bà dạy nó làm dấu, đọc kinh. Bà phải sửa nó rất nhiều lần vì nó có hai tật là hay đeo dép trái và làm dấu tay chiêu. Trước khi ăn cơm bà dạy nó nói câu : “Con mời Đức Bà ăn cơm” khi đi ngủ thì nhắc nó : “Xin Đức Bà cho con ngủ ngon”. Bà đã dạy nó biết bao điều lặt vặt khác nữa. Bà là điển hình của một thế hệ sống đạo, giữ đạo và dạy đạo theo cach hết sức mộc mạc nhưng nó lại thấm sâu trong tâm hồn thế hệ con cháu của bà. Về sau khi bà mất, mỗi khi trông em, nó lại bắt trước bà để dạy cho các em những điều mộc mạc như thế.
Năm 5 tuổi thì mẹ nó sinh em. Không phải là một mà là sinh đôi, nó vui quá chừng !
Ngày nó lên lớp 10, khi dân làng đang góp sức cùng nhau xây dựng ngôi nhà nguyện của thôn thì một vụ tai nạn xảy ra. Sau hai cơn mưa rào bức tường mới xây đã không may ập xuống… Tai họa ấy đã mang bố rời xa chị em nó mãi mãi. Sáng hôm đó, trước khi đi học, bố gọi nó lại đưa cho nó 200.000 đồng và nói : Bố mới lĩnh tiền công tháng này, một phần để đóng tiền ăn cho hai em, còn đây con cầm đi đóng tiền xây dựng trước, tiền học phí để mấy hôm nữa bố đưa sau nha ! Nó thưa một tiếng “vâng” nhỏ nhẹ, rồi trộm nhìn bố. Nó thấy chiếc cổ áo đã sờn và bạc phếch mà ngày nào bố cũng mặc. Nó cầm tiền mà dưng dưng trong lòng, đôi tay nhỏ chạm vào bàn tay bố, nó thấy thô rát bởi những vết chai sạn. Nó thương bố. Có ai ngờ đó cũng là lần cuối cùng nó được nhìn và chạm vào người bố thân yêu. Còn đứa em 6 tháng tuổi trong dạ mẹ nó thì mãi mãi không được nghe giọng của bố.
Ngày bố còn sống, cuộc sống gia đình còn có miếng ăn, miếng để. Chị em nó không sung sướng hơn chúng bạn nhưng cũng không thiệt thòi hay thiếu thốn thứ gì.
Bố mất, mẹ nó ở vậy nuôi ba đứa con thơ dại. Giữa cảnh mẹ góa con côi, kinh tế khó khăn, mẹ phải bán chiếc honda để làm vốn để xoay sở việc buôn bán. Mẹ nó lại tranh thủ đi giúp việc thêm vào buổi chiều cho một gia đình trên thành phố. Mẹ chỉ còn hai thứ tài sản quý giá nhất : Bốn chị em nó và chiếc xe đạp cũ.
Nó lớn dần, tuổi 18 – cái tuổi rất dễ tự ti và mủi lòng, nó hay mặc cảm và tủi thân.
Từ ngày mẹ đi làm thuê, nó trở nên trầm mặc, ít giao du với bạn bè, không còn vui vẻ như trước nữa.
Hôm thi đại học, nó thấy mẹ dậy sớm ngồi trước tượng Đức Mẹ thật lâu, rồi lặng lẽ xuống bếp nấu xôi vò. Ăn sáng xong xuôi, mẹ lại gò lưng trên chiếc xe đạp cũ đưa nó đi thi. Mọi ngày, nó vẫn tự đạp xe tới trường nhưng hôm ấy địa điểm thi ở xa mà nó thì không biết đường.
Nhìn thấy các bạn cùng đi thi được bố, được mẹ quan tâm, chăm sóc, chiều chuộng đủ kiểu thì nó chạnh lòng. Dường như ai ai đều nán lại cổ vũ tinh thần cho con em mình thi tốt. Còn mẹ nó phải vội về cho kịp giờ làm việc.
Nó xuống xe, nhìn mẹ, giọng đượm buồn : “Thôi về đi mẹ !”.
Hết giờ thi, ngoài cổng trường nhốn nháo kẻ đón, người chờ, lời hỏi han rộn ràng, tiếng xe máy dòn nổ. Nắng rát, nó lầm lũi, chỉ có cái bóng là “người bạn đường” đi kề bên đôi chân. Nó thấy sự cô độc như nhân đôi…
Nhưng lạ thay ! Lúc đó, nó nghĩ đến mẹ và càng thương mẹ hơn. Giờ này chắc mẹ cũng đang một mình bươn chải với những công việc không tên trong một gia đình giàu có, xa lạ nào đó. Nó rảo bước nhanh để ghé qua chỗ mẹ làm, chờ mẹ cùng về.
Năm đó, nó đậu vào khoa Văn trường sư phạm. Ước mơ của nó và cũng là của bố mẹ đã thành hiện thực. Nhưng niềm vui không được trọn vẹn bởi mẹ lại bỏ chị em nó khi chưa kịp nhìn nó ra trường. Mẹ ra đi vì một cơn đột cơn đột qụy khi đang bán hàng ngoài chợ. Đau đớn, khóc hết nước mắt nhưng nó vẫn phải đứng dậy. Nó trở thành trụ cột và cáng đáng mọi việc trong nhà. Nhìn nó cứng cáp và trững trạc hơn so với những đứa bạn 9X cùng trang lứa. Nó ít cười, thi thoảng người ta mới nhìn thấy hai má lúm đồng tiền khi nó đùa vui với các em. Dường như sự vô tư lặn sâu và mất dấu trên khuôn mặt tròn trĩnh của nó.
Vẫn chiếc xe đạp cũ, nó kiếm việc làm thêm nuôi hai em đang tuổi đến trường. Nó làm ở một cửa hàng hoa khá lớn. Khách ra vào tấp nập, người chọn bó này, kẻ chỉ kiểu kia… Có những ngày mệt lả, bụng đói meo nhưng nó vẫn phải tươi cười.
Khuya, nó trở về nhà. Bếp núc lạnh tanh. Đứa út trán hâm hẩm nóng, mắt nó hướng ra phía cổng ngóng chị về…
Thằng anh nghẹn ngào :
- Buổi chiều, em đưa Bống sang nhà cô Thủy chơi đồ hàng cùng thằng Sung và cái Lan. Hôm nay, sinh nhật Bống chị à !
Nó không nói gì, ôm em vào lòng, giấu vội giọt nước mắt chảy dài trên má, giọt nước mắt tủi thân giữa cảnh mồ côi khốn khó. Từ ngày mẹ mất, chị em nó chưa được ăn một bữa cơm ấm cúng bên nhau.
Chúa Nhật hôm sau, nó đưa em đi lễ chiều và dặn ba em cầu nguyện cho bố mẹ. Bố nó đã ngã xuống ngay tại chính ngôi nhà nguyện khang trang này. Nó tin bố mẹ ở trên Thiên Đàng đang mỉm cười với chị em nó, còn Chúa thì đọc được tất cả những niềm vui, nỗi buồn mỗi khi ghé nhìn nó từ trời cao. Tan lễ, nó bảo các em nán lại đọc kinh để cầu nguyện cho ông bà và bố mẹ. Nắng chiều hắt hiu xiên ngang qua cánh cửa mở thênh thang. Bóng bốn chị em đổ dài trên nền gạch. Mắt nó bị hút vào ánh sáng từ ngôi Nhà Tạm. Nó chợt nhận ra Chúa đã giam mình trong đó từ lâu lắm rồi. Dường như nỗi buồn trong tim nó đang tan ra và sự đơn độc cũng được thu nhỏ.
Nó ngước nhìn Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh rồi thả lòng theo đường ray của lòng cậy trông và yêu mến.
Bỗng, có một bóng người vụt nhanh qua ô cửa. Ánh chiều loang loáng khiến nó không kịp nhận ra đó là ai. Chỉ thấy có một đôi mắt nhìn nó cách trìu mến. Nó nghe được một lời duy nhất vọng lại trong hồn : “Con yêu, ơn ta đủ cho con, hãy vững vàng lên !” Mở mắt, giật mình, nó ngước nhìn lên Nhà Tạm, cánh cửa nhỏ đang mở…
Hôm ấy, nó dành một ngày tự tay đi chợ và nấu những món ăn ngày xưa mẹ dạy. Một bữa tiệc nhỏ được bày ra để đền bù cho sinh nhật của Bống hôm trước vì nó lỡ quên. Nó mua một chiếc bánh sinh nhật nhỏ xinh và cắm lên đó những cây nến nhiều màu. Nhìn đôi mắt thơ ngây của Bống ánh lên. Nó ấm lòng. Bốn chị em quây quần bên mâm cơm thơm mùi canh cá quả nấu với dưa chua, Những tiếng cười khúc khích làm dậy không khí một gia đình. Ngoài trời, gió lạnh mùa đông làm cành bàng khẳng khiu đan vào nhau, chỉ còn lơ thơ vài chiếc lá đỏ úa, vài ba mầm non đang nhú lên từ kẽ lá. Một niềm hy vọng mới cũng đang nhen nhóm lên trong tâm hồn nó… Mùa xuân sắp về rồi !
Mã số: 14-028
NHỮNG NGÔI MỘ BÊN SÔNG
- Ông Hai! Ông Hai ơi! Ra lấy đồ nè!!!
Ông già lững thững đi ra bến sông khi nghe tiếng gọi mỗi sáng. Người trên thuyền đưa cho ông mấy củ khoai, vài lon gạo. Ông Hai miệng thều thào, ông vẫn có thói quen lẩm bẩm những câu nói không ai hiểu nổi.
Từ ngày ông Hai sống ở bến sông này, bà con Xóm Đoài đi đâu về cũng ghé, người cho ông vài củ khoai, kẻ biếu ông mấy con cá. Cuộc sống của ông nhờ vào lòng hảo tâm của bà con nghèo. Không ai biết tên thật của ông Hai là gì. Cũng không ai biết ông đến từ đâu. Người già nhất của Xóm Đoài nói rằng ông bị sóng đánh và dạt vào bến sông này. Người ta dựng cho ông một túp lều nhỏ. Ông không nhớ tên tuổi của mình, càng không nhớ quê hương ở đâu. Có lẽ sau lần chết hụt trên ngọn sóng năm xưa, ông đã bị mất trí.
Ngày ngày, ông ra ngồi ngắm dòng sông, miệng lẩm bẩm điều gì đó. Mỗi khi có xác người trôi vào cửa sông, ông Hai lại tìm cách vớt lên, mai táng ở khu đất hoang trước cửa lều ông. Điều kỳ lạ là mỗi ngôi mộ, ông đều cắm cho họ cây thánh giá. Có ngôi mộ thì cây thánh giá gỗ, có ngôi mộ cây thánh giá bằng 2 nhánh cây buộc lại. Qua việc làm của ông, người dân Xóm Đoài đoán ông Hai cũng là người theo đạo.
Chiều cuối tuần, khi nghe tiếng chuông nhà thờ, ông Hai thường đứng nhìn về phía ngọn tháp. Cũng có lần ông dò dẫm đi về hướng đó, nhưng đi nửa chừng thì chân mỏi, gối đau nên ông dừng lại nhìn ngọn tháp chuông rồi quay về lều.
Đêm mịt mùng. Nó cố gắng mở mắt. Toàn thân đau nhừ. Nó cố nhớ lại xem mình đang ở đâu. Không định hình được. Cố hồi tưởng. Nó nhớ mình cùng mấy thằng bạn tù tổ chức cướp tàu Phương Nam, một con tàu nổi tiếng giàu có. Nó cùng mấy bạn chiến hữu đứa cầm dao, đứa cầm mác xông lên. Sao giờ mình lại nằm ở đây? Mấy thằng kia đâu? Đây là đất liền chứ không phải trên tàu. Nó lim dim mắt. Ngọn đèn dầu leo lét hắt lên mái lều. Phía góc bên kia, một ông già đang ngồi, miệng như lẩm bẩm điều gì đó. Căn lều sáng mờ mờ, chập chờn ngọn đèn. Nó gượng dậy, cái lưng đau tê tái. Ông già thấy nó cựa quậy liền đi tới. Ông cầm ngọn đèn soi vào mặt nó. Thấy nó đã tỉnh, ông đưa cho nó cái khăn ướt. Nó hiểu ra ông là người đã cứu nó. Trong ánh đèn mờ ảo, nó thấy bóng ông mảnh khảnh, yếu ớt. Ông đỡ nó ngồi dậy.
- Ông lão, tôi đang ở đâu thế này? - Nó cất tiếng hỏi.
Ông lão vẫn im lặng, miệng ông lầm bầm điều gì nó nghe không rõ. Nó thảng thốt. Chẳng lẽ là ma chứ không phải người. Làm gì có ma. Đời nó vào tu ra tội, chơi bời đủ chốn, cướp bóc đủ nơi, nó đâu sợ gì ai mà nay lại sợ ma!? Nó ghé mặt lại gần nhìn ông lão. Thì ra ông ấy không bình thường. Ông này hình như lúc tỉnh lúc mê.
Ông lão lục trong cái rổ lấy cho nó vài củ khoai luộc. Nó cầm lấy, lưỡng lự suy nghĩ. Thì ra ông già này đã vớt mình lên. Ông đã cứu mình. Đúng là người tốt. Cái bụng nó đói cồn cào. Nó ăn. Trong chớp nhoáng đã hết mấy củ khoai. Ông lão tiếp tục lục tìm đồ ăn cho nó. Một gói cơm nếp được gói cẩn thận trong tàu lá chuối, ông đưa cho nó. Thêm mấy con cá kho. Lần này bụng nó đã bớt đói. Nó nhìn ông bằng ánh mắt biết ơn và ăn chầm chậm, từ từ.
Ăn xong, nó vẫn thấy cơ thể mỏi nhừ. Nó nằm xuống ngẫm ngợi. Nó nhận ra thân mình nó giống như bị gậy đập vào lưng. Chắc tối qua trên tàu nó bị tụi thuỷ thủ phản công và quăng nó xuống sông. Chắc phải vài bữa cái lưng mới bớt đau, lúc đó mới hy vọng đi tìm đồng bọn. Mà biết tìm ở đâu? Bao năm qua nó lang bạt, nay đây mai đó cùng đồng bọn. Khi đói ăn thì đi cướp bóc. Lúc có tiền cũng không biết về đâu. Có nơi chốn nào để về? Nó thiếp đi trong muôn vàn ý nghĩ bâng khuâng.
- Ông Hai! Ông Hai ơi! Ra lấy đồ nè!!!
- Ông Hai! Ông Hai ơi! Ông đang làm gì đó? Ra lấy cá về ăn nè!
- Ông Hai! Ông ngủ dậy chưa? Mấy bữa nay có vớt được xác nào không?
Nó choàng tỉnh khi nghe tiếng gọi í ới ngoài bến sông. Ông lão lững thững đi ra. Nó ngồi nhìn qua phên vách. Gió từ bến sông thổi vào lều làm cho những mảnh ni lông tung lên phần phật. Xa xa trước lều, một bãi đất trống thấp thoáng những cây thánh giá mọc lên trên những ụ đất. Ngoài bến sông, mấy con thuyền nhỏ ghé lại. Mấy người đàn bà, đàn ông đưa cho ông Hai những bọc đồ ăn.
- Ông Hai nhớ cất giữ cẩn thận mà ăn dần nhé!
Giọng nói nghe quen quen. Nó dướn mắt nhìn qua tấm phên. Đúng là vợ của lão Chương mà hôm trước nó cùng đồng bọn trấn con thuyền đó. Nó tự cười chế giễu: Đời thật oái oăm! Mình đi cướp của họ, nay lại ăn nhờ của họ! Chớ trêu!
Ông Hai hai tay khệ nệ xách đồ vào lều. Ông xách 2 chuyến mới hết đồ. Ông để đồ trước cửa lều, mở ra xem từng thứ rồi lúi húi cất đi. Ông đặt lên cái bàn nhỏ một gói cơm còn nóng cùng với thịt. Có ai đó cho ông 1 chai rượu, ông đặt lên bàn, làm hiệu bảo nó lại ăn. Nó cố lê gối lại bên bàn. Ánh nắng sớm chiếu vào lều toả sáng cả chỗ nó nằm. Nó nhìn rõ mặt ông lão. Đúng là một ông lão hiền lành nhưng mỗi tội không được thật tính. Nó bắt đầu thử nghiệm lại suy nghĩ của mình.
- Ông! Ông tên là gì? - Nó cất tiếng hỏi.
Ông lão nhìn nó cười cười, lắc đầu:
- Không nhớ!
- Thế quê ông ở đâu? Vợ con ông đâu?
Ông lắc đầu. Miệng ông lại trệu trạo lẩm bẩm điều gì. Ông quay mặt nhìn ra sông trầm ngâm, rồi lại quay vào nhìn nó cười cười. Hết cười lại lầm rầm nói một mình. Nó giật mình khi nhìn thấy trên cổ ông có có cây thánh giá bằng đồng tự chế từ vỏ đạn. Có lẽ nào?! Nó tự nhủ. Nó lê lại gần ông, ngồi bên ông để nhìn cho rõ sợi dây chuyền và cây thánh giá trên cổ. Ông lão đưa tay lên làm dấu để ăn cơm. Nó nhìn ông trân trân. Càng nhìn kỹ, nó càng thấy ông quen quen, giống như một hình ảnh nào đó rất nhạt nhòa trong tâm trí. Hai hàng nước mắt nó tự dưng ứa ra. Cử chỉ làm dấu của ông gợi nó nhớ về tuổi thơ xưa cũ.
Nó nhớ lại ngày thơ ấu xa lắm rồi. Nó cũng có một gia đình hạnh phúc, có cha mẹ. Cha nó làm nghề buôn muối. Ông cũng hay mang cây thánh giá bằng đồng tự chế trên cổ. Ông yêu quý cây thánh giá vô cùng. Sau mỗi chuyến chở hàng về, ông hay cõng nó trên lưng ra cánh đồng cùng thả diều. Nó thường lấy tay mân mê cây thánh giá trên cổ cha. Hai cha con cùng cười vang mỗi khi nó giật giật sợi dây chuyền.
Có lẽ nào ông lão chính là cha nó? Cha nó còn sống sao? Nó nhìn ông lão rồi tự hỏi. Cây thánh giá chứng minh 99% ông là cha nó. Điều còn lại phải làm ông lão nhớ lại và hỏi người đã vớt ông lên. Biết đâu tai nạn năm xưa cha nó ngã khỏi thuyền muối cũng giống như nó rơi khỏi con tàu Phương Nam đêm trước? Cả ông và nó đều sống và sống tại cửa sông này. Lòng nó bâng khuâng khó tả. Từ ngày bỏ nhà ra đi, tới nay bao năm nó cũng không nhớ. Chỉ biết rằng ngày đó mẹ nó bị bệnh, nó còn nhỏ, nó và đứa em gái được gửi cho người bà con nuôi. Nó buồn vì mất cha, xa mẹ. Mẹ nó nằm viện. Một chiều đi học về, nó muốn đi thăm mẹ, nó tự ý tìm đường lên phố rồi trôi dạt tới nay. Nó nhớ làng của nó có một ngôi nhà thờ ở giữa làng. Thỉnh thoảng, cha nó đưa nó tới nhà thờ. Cha nó hay cầm tay, dạy nó làm dấu thánh giá. Trên đường lưu lạc, có lúc nó cùng đồng bọn đi "làm ăn" có ngang qua ngôi nhà thờ nào đó, nó cũng chợt nhớ mang máng kỷ niệm ngày xưa. Lúc đó, nó chậc lưỡi: Tất cả chả còn gì! Cũng có lần nó gặp người quen nơi làng cũ, nó hỏi thăm được biết mẹ nó qua đời sau lần bệnh đó. Đứa em gái đã lấy chồng và đang sống ở xứ đạo cũ. Bao năm giang hồ, nó gắn bó với tên Tư Sẹo mà đồng hữu đặt cho. Nó quên cả tên thật của nó. Nay nhìn vào cây thánh giá trên cổ ông lão, nó nhớ ngày xưa mỗi lần nó mân mê cây thánh giá đó, cha nó luôn âu yếm nói: "Cu Hưng của bố! Bố thương Cu Hưng nhiều!"
- Ăn đi! - Ông lão giục nó.
Ông nhìn nó lúc trìu mến, lúc ngây dại.
- Cha! - Nó buột miệng gọi.
Ông lão nhìn nó cười cười. Nó nắm lấy tay ông, ông vẫn chỉ cười. Bàn tay gầy guộc mà thân thương. Cảm giác ấm áp lan toả cơ thể. Nó chợt nhớ ra mình còn có một gia đình.
Tiếng chuông nhà thờ đổ hồi. Ông lão đứng dậy đi ra bãi đất trống nhìn về phía nhà thờ. Ông nhìn nó cười cười rồi chỉ tay về hướng tháp chuông. Nó đứng dậy, đến bên ông. Nó không hiểu ông nói gì nhưng biết ông muốn nói về nhà thờ. Nó choàng tay vào vai ông, dìu ông bước đi về phía ngôi giáo đường. Ông vừa đi vừa mỉm cười.
- Cụ còn nhớ ngày cụ vớt ông Hai lên không?- Nó hỏi cụ Bàng bên Xóm Đoài.
- Nhớ chứ? Năm đó khoảng năm tám mươi. Ông ấy bị sóng cuốn, mắc kẹt trong một bè chuối. Lúc đưa ông lên, ông ngất lịm, cấp cứu hai ngày ông ấy tỉnh lại. Chỉ có điều ông không nhớ được quê quán ở đâu. Thỉnh thoảng tôi thấy ông nhắc tới tên Ghềnh, nhắc làng Xuân và Mằng Lăng gì đó. Nếu có điều kiện thì chúng tôi cũng gửi thông tin lên các phương tiện thông tin để tìm kiếm người thân cho ông ấy. Nhưng tiếc là không thể làm được.
- Vậy khi đó trong người ông Hai không có giấy tờ tuỳ thân gì hả cụ?
- Chỉ có một tấm hình ông Hai chụp cùng một đứa bé. Tôi nghĩ có thể là con trai ông ấy.
- Thế tấm hình đó cụ còn giữ không?
- Không. Ông Hai đang giữ. Ông ấy vẫn để trong túi áo trên ngực. Thỉnh thoảng ông ấy bỏ ra xem rồi lại ngồi thẫn thờ. Chắc ông không nhớ được gì đâu.
Nó xin phép ra về, nó chạy như bay về bãi sông, bên túp lều ông Hai. Ông Hai nhìn nó cười cười. Nó nhìn ông trong nước mắt. Đúng là cha tôi rồi! Trời đất ơi! Nó quỳ sụp xuống ôm lấy chân ông. Ông Hai ú ớ, trệu trạo cái miệng như muốn khóc khi nhìn thấy nó khóc.
- Chuẩn bị đi đâu mà mang nhiều đồ thế anh Hưng ơi! - Giọng nói từ con thuyền xuôi bến hỏi vọng vào bãi sông.
- Hôm nay gia đình tôi về thăm quê.
- Cả chị và hai bé cũng về hả?
- Dạ, cô có đi chợ trên phố luôn không? Nếu đi mua giùm tôi mấy bó hoa cúc, để tôi thắp hương cho cha tôi và cho các ngôi mộ ở đây.
- Có, vậy anh Hưng có mua hương luôn không?
- Hương nhà tôi vẫn còn nhưng Cô cứ mua giùm 5 bó nữa nha!
- Dạ được anh Hưng. Anh về quê có việc gì mà đưa cả vợ con về thế?
- Tôi về Quy Nhơn mừng lễ bổn mạng xứ nhà tôi. Lễ thánh Anrê Phú Yên đó cô.
- Thảo nào. Nhớ cầu cho em mấy kinh nhé!
- Tôi nhớ chứ! Cô cũng đừng quên cầu nguyện cho chúng tôi đó nha.
- Mấy đêm qua anh Hưng có vớt được thi hài nào không?
- Có, tôi vừa an táng sớm nay rồi. Đó, đó, ngôi mộ đang toả hương và cây thánh giá bằng gỗ mới đó cô.
- Em nhìn thấy rồi. Tội cho họ quá!
Nắng sớm toả xuống mặt sông sóng sánh hắt lên những cây thánh giá trên mộ. Tiếng người qua lại trên sông ngày càng nhộn nhịp. Anh đứng lặng nhìn những ngôi mộ, nhìn những cây thánh giá trong ban mai như toả sáng lấp lánh. Gió từ mặt sông thổi lên, êm đềm, mát rượi. Một ngày mới thật thanh bình!
Mã số: 14-029
BUỔI HỌC THƯ PHÁP
Gửi tặng Ông giáo nghèo: Frère Lê Văn Vinh
Viết về thầy, ngòi bút xanh mênh mang đầy cảm xúc
Nghĩ đến thầy, tâm hồn thơ ấm áp giữa ngày đông.
Báo cáo papa, con đã tới!
Nó nhảy tót xuống khỏi chiếc xe đạp cũ, vừa hạ chân chống, vừa nhanh nhảu cái miệng chào thầy kính yêu – người mà nó đã thân thiết như cha ruột.
Ông giáo là người con của miền Tây sông nước. Chất giọng lơ lớ thật dễ thương, nhẹ nhàng so với cái giọng chắc nịch như chì vùng đất Nghệ của nó. Chiều cao của thầy có phần khiêm tốn so với những người đàn ông khác. Thầy chỉ cao 1m60, hơn nó một chút. Vóc dáng gầy ốm của một người làm việc nhiều cùng mái tóc điểm hoa râm vì suy nghĩ bao đêm cho lớp lớp học trò khiến thầy già đi trước tuổi. Ngoại hình bé nhỏ như thế nhưng lại chứa đựng bên trong tài năng, kho trí thức vô tận và nhân cách cao thượng, tuyệt vời! Nó kết nhất ở ông giáo là đôi mắt. Mỗi lần nhìn vào đôi mắt ấy, nó cảm nhận được một biển yêu thương, một trời bình yên và cõi mênh mang cảm xúc. Đôi mắt hiền, trìu mến đã mang lại cho nó niềm vui, hạnh phúc và nguồn an ủi những lúc buồn phiền.
- Hôm nay mình học viết thư pháp tiếp nha thầy! Hôm qua con có tập viết ở nhà nhưng nét chữ non và yếu quá!
Đôi mắt vẫn chăm chú uốn từng đường cong trên thanh kẽm để làm cánh hoa ly, thầy cất tiếng nói nhẹ nhàng:
- Ừ! Con gái muốn học thư pháp thì thầy sẽ hướng dẫn thêm. Con đã tự tin viết được những chữ nào rồi?
- Con đã viết chữ “Xuân” để mừng năm mới, chữ “Hiếu” để tặng cha mẹ. Hôm nay con muốn viết chữ gì sâu sắc sẽ theo con suốt cuộc đời thầy ạ!
Nó hớn hở kể thầy nghe như đang kể về những chiến tích vĩ đại, vừa nói vừa đưa tay vào túi lấy tập giấy và cây cọ. Bỗng đôi mắt mở tròn, da trên trán nhăn lại, tay ngoáy ngoáy trong túi như đang tìm vật gì đó. Nó định thần lại rồi khẽ buông tiếng thở dài. Hiểu ý, thầy cất tiếng:
- Tiểu thư của tôi hôm nay lại quên cọ tiếp nữa à. Tuần học có hai buổi mà quên cọ cả hai lần.
- Cái tính này chắc thầy phải tập cho con trăm lần nữa mới thôi – thầy tiếp lời. Ngồi đó đợi thầy vào phòng tìm xem còn cây cọ nào nữa không. Thầy vừa đi vừa nói vọng lại với nó.
Nó bặm môi như đang tự trách chính mình sao lơ đãng, chẳng học được một chút chu đáo, kĩ lưỡng của thầy. Nó nhìn theo dáng đi nhanh nhưng hơi khòm xuống của thầy. Bất chợt dòng suy nghĩ miên man trong kí ức ùa về.
Nó - cô gái đến từ dải đất miền Trung. Quen chống chọi với cái khắc nghiệt của những mùa bão lũ hay những trận gió Lào khô khốc, nên tính cách cũng có chút ngang tàng. Nó bước vào ngưỡng cửa đại học với bao lạ lẫm trước cuộc sống mới và sự khó khăn như bao sinh viên những tháng ngày đầu rời xa mái ấm gia đình. Một năm đại học qua đi. Vui ít, còn lại chất chứa bao nỗi buồn. Buồn nhất là nhớ nhà. Mười tám năm nó sống bình yên trong vòng tay chăm sóc của cha mẹ. Giờ chỉ cần ai nhắc đến hai tiếng “cha mẹ” là nước mắt tự nhiên ứa trào. Đứa bạn ngồi đối diện hốt hoảng như vừa làm điều gì sai lầm với nó. Một lát sau nó mới bình tĩnh, giải thích vì nhớ nhà quá, nhớ cha mẹ! Năm thứ nhất đời sinh viên trôi đi chậm chạp, lê thê tính tháng, tính ngày. Nó cũng nhờ tới trung tâm gia sư và được giới thiệu dạy cho một em lớp 5. Phần để khuây khỏa, lấp trống thời gian; phần kiếm thêm chút tiền phòng cho cha mẹ đỡ vất vả. Nó nhớ tới hai nàng Kiều trong “Tỏa nhị Kiều” của Xuân Diệu và ngẫm thay mình cũng chẳng hơn hai nàng là mấy. Tư tưởng không thông khiến việc học của nó không đạt kết quả cao tương xứng với năng lực. Lại thêm tâm trạng muôn nỗi tơ vò, dường như nó chỉ muốn sống với quá khứ, sống vì quá khứ và ảo mộng cùng những kỉ niệm. Thời gian! Ôi chao “Ba thu dồn lại một ngày dài ghê”.
Bỗng một ngày kia nó gặp thầy. Giấc ngủ đằng đẵng hoàn toàn được đánh thức. Thầy đến! Mang cho nó luồng gió mát mẻ của tuổi trẻ, của khát vọng, của lí tưởng. Chính thầy đã khiến nó từ bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới. Hơn ai hết, nó cảm nhận được cái duyên kì ngộ với thầy. Hai con người xa lạ đến từ hai miền quê xa xôi trên dải đất chữ S đã gặp gỡ và trở nên thân thiết. Kể từ ngày gặp thầy, nó được sống là chính mình, được thể hiện hết khả năng bấy lâu nó vô tình lãng phí. Cuộc sống của nó bị đảo lộn hoàn toàn. Còn đâu nữa những ngày cuối tuần dài dằng dặc, ngoài việc đi dự lễ Chúa Nhật, còn lại giết thời gian? Còn đâu những buổi chiều rảnh rỗi tựa cửa nhìn vô định lên bầu trời xa xăm? Hay bao đêm nằm ôm gối khóc tức tưởi vì nhớ nhà? Không! Đó là nó của quá khứ. Nó bây giờ đã trở thành một con người mới: năng động, nhiệt tình và biết sống vị tha hơn. Chính thầy đã kéo nó vào guồng quay của cỗ máy tình yêu và phục vụ. Những giờ học giáo lý bổ ích, những buổi sinh hoạt sinh viên, cuộc gặp gỡ nói chuyện thân tình, những giờ ngoại khóa thú vị, được đi phát quà ở trung tâm khuyết tật hay những mùa hè xanh đến với các em nghèo vùng biển… Thời gian một ngày sao mà ngắn ngủi và nhanh qua đến vậy! Nó cũng muốn được như thầy: một ngày kia sẽ đứng trên bục giảng, dạy các em nhỏ điều hay lẽ phải, đưa các em vươn tới những chân trời mới đầy khát vọng và hoài bão, hướng dẫn các em tìm về cội nguồn của Chân, Thiện, Mĩ.
- Đây rồi, may quá vẫn còn một cây. Hơi cũ một chút nhưng vẫn xài tốt. Con cầm viết tạm hôm nay nhé. Hôm qua còn mấy cây, anh chị lớp trước mượn về nhà hết rồi.
Nó chợt nẩy mình, đôi mắt tinh nghịch mừng rỡ như đứa trẻ nhận được quà:
- Con yêu papa nhất! Cám ơn papa lắm lắm!
- Nãy giờ con đã suy nghĩ hôm nay viết chữ gì chưa?
- Dạ… Con mải nghĩ lại chuyện ngày xưa nên quên mất. Thầy tìm cho con một chữ sao cho con khắc cốt ghi tâm ấy!
Thầy mỉm cười:
- Con vừa nói xong từ đó mà còn bảo thầy tìm giùm gì nữa?
Nó ngơ ngác không hiểu ý thầy.
- Con đã nói bao giờ đâu mà thầy cứ chọc con hoài.
- Chữ gần cuối con vừa nói lúc nãy là gì nhỉ?
- Chữ… TÂM phải không thầy?
Thầy mỉm cười, còn nó thì ngẫm nghĩ như vừa được khơi gợi, đánh thức một điều gì đó thú vị lắm.
- Chắc con gái đã nghe về chữ “Tâm” nhiều lần rồi đúng không?
- Dạ, con nghe đã nhiều, cũng hiểu nhiều nhưng… ít lần suy nghĩ về chữ ấy.
Giọng thầy nhẹ nhàng giảng giải thêm:
- Con học Văn nên chắc hẳn không quên câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du: “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”, hay người xưa có câu: “Chữ Tâm độc tự thế mà hay. Thành bại nên hư bởi chữ này.” Con người ta sống với nhau không thể thiếu chữ ấy con gái à, đặc biệt là xã hội hôm nay. Như con thấy đó, nhiều bác sĩ vì thiếu chữ Tâm mà bắt bệnh nhân đợi chờ ngoài hành lang cho đến tắt thở; có người khiến bệnh nhân chết lại còn phi tang xác, không để họ chết thanh thản, toàn vẹn. Những con người lãng quên chữ Tâm mà bòn rút công trình, gây ra bao hậu quả nghiêm trọng. Còn những bảo mẫu đánh đập tàn nhẫn, chà đạp những em bé ngây thơ. Rồi chuyện cha mẹ đẻ giết con của mình, con giết cha mẹ, có kẻ giết cả gia đình năm mạng người chỉ vì tham tiền, hay chuyện vì ăn trộm một con vịt mà nỡ lòng giết chết hai em nhỏ… nham nhảm mọi thứ trên đời. Thầy kể những chuyện tiêu cực ấy không phải để con thất vọng hay chán nản với cuộc sống, nhưng để con thấy chữ Tâm đang bị sự đời gặm nhấm, bào mòn rồi tiêu tan. Hơn bao giờ hết, chữ Tâm cần thiết theo sát cả cuộc đời của con. Biết bao bậc vĩ nhân ghi danh lịch sử không chỉ bởi tài năng xuất chúng mà còn vì tấm lòng cao thượng, tâm hồn sáng tựa vì sao. Con đang theo đuổi nghiệp giáo nên thầy rất muốn con cảm nhận sâu sắc chữ này.
- Dạ, đôi lúc con đọc tin tức trên mạng những chuyện đau lòng như thầy kể mà thấy chán ngán cuộc đời. Nhưng vẫn phải cố gắng sống tốt dù người xung quanh có thế nào, với hi vọng “mỗi ngày một cử chỉ đẹp góp phần cải thiện thế giới ngày một tươi đẹp hơn”. À đúng rồi, thầy có nhắc con viết thư pháp đẹp là một chuyện, còn phải biết chọn màu chữ sao cho nổi bật được ý nghĩa. Vậy chữ Tâm mình viết màu gì thầy nhỉ? Màu đen như ngày thường được không?
- Hôm nay, thầy sẽ hướng dẫn con viết bằng kim tuyến chứ không viết mực Tàu như bữa giờ nữa. Con là giáo viên tương lai nên cần đặt chữ “Tâm” lên trên hết. Một cô giáo không thể hoàn thành tốt công việc của mình nếu không có chữ ấy. Bây giờ thầy chọn cho con tờ giấy màu đen làm nền và hũ kim tuyến màu hồng với ý nghĩa: giữa một xã hội với những cám dỗ đen tối đang bủa vây: tiền bạc, danh vọng, địa vị… con vẫn phải sáng lấp lánh như những viên kim tuyến màu hồng này trên phông nền đen tối ấy. Con gái hãy nhớ: chữ “Tâm” phải ở trên hết và tỏa sáng chứ đừng để màu đen kia vùi lấp nhé con! “Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến”. Con cố giữ lấy để sống phục vụ, yêu thương, sáng danh là người con của Chúa, làm chứng cho Đức Ki-tô trong môi trường con sẽ sống và làm việc. Mình là người Công Giáo, Chúa đặt lương tâm như một lề luật để ta biết làm lành, lánh dữ. Thầy hi vọng con gái sẽ giữ lấy những điều thầy nói.
“Ôi! Thầy đáng kính của con! Từng lời, từng chữ như in, khắc, chạm sâu vào tâm trí con. Mỗi lời thầy dạy, là những giây phút con như được “đốn ngộ” thêm nhiều điều. Hành trang con bước vào đời sẽ là kiến thức con học được trên giảng đường và chữ “Tâm” kia của thầy”. Nó muốn thốt lên thật lớn trước tấm gương đạo đức tuyệt vời của thầy. Xúc động, nó cất tiếng thủ thỉ:
- Con cám ơn thầy rất nhiều! Lời thầy giảng dạy, con xin mãi trọn đời khắc ghi. Con sẽ cố gắng sống, phục vụ tha nhân hết khả năng của mình để làm chứng cho tình yêu của Đức Ki-tô. Dù lòng người đổi thay hay thế gian phũ phàng, con gái vẫn tin tưởng chữ Tâm sẽ cảm hóa và biến đổi được tất cả.
Rồi thầy nhẹ nhàng hướng dẫn nó từng nét thanh, nét đậm, chỗ nhấn hoặc nhấc cọ… Để rồi cuối cùng, khi rắc một lớp kim tuyến lên trên, chữ Tâm thực sự nổi bật và tỏa sáng giữa phông nền đen. Thật tuyệt vời! Như ngọn nến chiếu sáng giữa màn đêm đen tối của lòng người hôm nay!
Bài học ấy suốt cả cuộc đời nó sẽ không bao giờ quên. Bây giờ nó đã đứng trên bục giảng, là người giáo viên thực sự rồi. Nó đang cố gắng thực hành những lời thầy dạy năm xưa bằng cả tấm lòng yêu thương, chăm sóc học trò, bằng những bài đạo đức về cuộc sống nó truyền lại cho thế hệ sau. Nỗi bâng khuâng, hạnh phúc ùa về trong tâm trí khi nó nhớ về thầy:
Cám ơn thầy đã cho con dòng chữ
Cho tình thương lai láng giữa dòng đời.
Mã số: 14-030
SA MẠC CUỘC ĐƠI!
Đời người là một cuộc hành trình, là một chuyến đi dài, đi và đi như thế nào đó là do mỗi người tự định đoạt lấy. Nhưng trên chặng đường ấy gặp ai và phải đương đầu với việc gì thì đố ai biết được?
Tôi cũng như tất cả mọi người được giao cho chiếc bị với mớ hành trang và quày quả bước đi. Hành trang là một khói óc, hành trang là một trái tim và hành trang là tiếng thì thầm giục gọi của lương tâm. Nó như chiếc la bàn, giúp tôi biết định hướng chuyến du hành đời mình.
Lúc còn bé con đường ta qua được trãi trước những miếng lót, có người mai mắn thì đó là thảm nhung, có người kém mai mắn hơn thì đường lát bằng xi măng, người kém mai mắn nhất thì trầy trụa với những bước trơn chợt từ thuở ấu thơ. Nhưng tất cả đều phải bước đi trên con đường của riêng mình.
Dọc con đường đi, được gặp nhiều người với nhiều thái độ khác nhau, vui tươi niềm nở mở lời chào, cái vẫy tay vội vả, môi mĩm nhẹ nụ cười, cái xiết tay, thậm chí cái bám chặt tay đỡ nhau qua lối trơn sìn bùn.
Trên lối đi có nắng sớm, mưa chiều, có trăm hoa đua nở, có cỏ xanh tươi, có đồng khô héo úa, có chim muôn ca hát và cũng không dè chừng thú dữ lăm le.
Đi và đi như thế nào để cảm nhận hành trình cuộc đời mình hạnh phúc và mang đầy ý nghĩa nhất là do có nhìn vào chiếc la bàn mà mình có sẵn trong tay hay không?
Tôi lắm lúc ngủ gục trên từng bước chân mình, chiếc la bàn mất hút khỏi tầm tay, con tim heo úa không nhựa sống, trí óc mòn mỗi vì những va vấp đời thường, nên cảm nhận những bước chân lỏng lẻo, nhạt nhẻo khi bước đi.
Lúc đấy tôi gọi “Sa Mạc cuộc đời”
Làm gì khi bước vào sa mạc?
Đứng trước sa mạc mà mình phải băng qua có người đuối sức và cảm thấy ngán ngẫm. Có người lại chùng chân, ao ước mình được đứng mãi dù trên thảm cỏ xanh, hoặc ở lại trong túp lều trọ ven đường. Có người lại chọn giải pháp rên rỉ, kêu gào khóc lóc. Còn không ít người cắn đến rướm máu đôi môi để chịu đựng, giẩm lên cát nóng bỏng thậm chí cháy xém gót chân để băng qua.
Một giải pháp tròn trịa để tôi nhìn vào và bước đi đó là:
Một anh chàng chỉ 33 tuổi đã chọn việc ở lại sa mạc cuộc đời mình bốn mươi đêm ngày để ăn chay cầu nguyện. Hay thật!
Việc ăn chay cầu nguyện đã thanh lọc tâm hồn Người, để rồi khi bước ra khỏi đó bóng đêm ập đến, sự dữ vây tứ bề nhưng ánh sáng của vinh quang đã bao trùm Ngài và chiếu tỏa, bóng tối dần dần bị mờ tan, bị đẩy lùi.Nhẹ nhàng lướt qua thập giá đau khổ để tiến đến vinh quang phục sinh.
Dìm mình vào việc cầu nguyện, để hấp thụ những tia sáng, để thông phần với Người, để được chia chát cái phần rực sáng, để được đánh dấu ấn, khi bước vào bóng đêm tia sáng lại phát ra chiếu dọi lối đi. Và rồi cũng sẽ được sống mãi trong ánh sáng phục sinh của Người.
Phải bước qua sa mạc cuộc đời lắm lúc như là một hồng ân vì có lầm lũi bước đi trong bóng tối, mới biết học cách nổ lực đi tìm ánh sáng và muốn ở lại mãi trong ánh sáng.
Có nếm cảm đau khổ, mới thấy cửa Vườn Giêt-xi-ma đang rộng mở mời gọi nhân trần đến thông phần, đến chia chát lợi lộc.
Thánh giá nở hoa vì do Chúa tôi đã dùng chính máu mình tưới lên. Để tôi đước đón nhận phần ân phúc ấy mà làm lộ phí trên đường đời!
Sa mạc đời người có héo úa hay nở hoa, là do tâm tình đón nhận!
BẢN THỂ LỆ GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG
Cập nhật cho cuộc thi lần thứ hai - 2014
GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG được Ban mục vụ Văn Hóa và Truyền Thông Giáo phận Qui Nhơn thực hiện trong khuôn khổ dọn mừng kỷ niệm 400 năm Tin Mừng của Chúa đến với giáo phận Qui Nhơn (1618-2018), nhằm đào tạo cho Hội Thánh Việt Nam nhiều cây bút văn xuôi. Thể lệ, chủ đề và cơ cấu tưởng thưởng của cuộc thi được ấn định như sau.
I. THỂ LỆ
1. Cuộc thi kéo dài sáu năm, năm năm đầu (2013-2017) mỗi năm trao giải một lần, năm thứ sáu (2018) dành cho những người đã đạt giải trong các năm trước và trao giải tổng kết.
2. Cuộc thi dành cho các bạn trẻ Công Giáo, trong cũng như ngoài giáo phận Qui Nhơn, dưới 40 tuổi (năm dự thi – năm sinh theo sổ rửa tội ≤ 40). Người đã đạt giải một lần, các năm sau có thể dự thi tiếp, dù đã hơn 40 tuổi. Các bạn trẻ dự tòng cần có chứng từ đang theo học giáo lý dự tòng.
3. Thể loại: Truyện ngắn, mỗi truyện không quá 3000 từ. Không nhận truyện phóng tác. Phải là sáng tác mới, chưa đăng báo, website hay blogs và chưa gởi dự thi ở bất cứ đâu.
4. Truyện lấy ý từ một tác phẩm khác, xin ghi rõ xuất xứ tác phẩm gốc. Nếu bị phát hiện sao chép của người khác hoặc dựng lại theo ý tác phẩm khác mà không ghi xuất xứ, sẽ bị loại và cấm thi các năm tiếp theo.
5. Đề tài: Truyện cần mang nội dung Kitô giáo, có tác dụng xây dựng đức tin cho Dân Chúa và loan báo Tin mừng cho người chưa biết Chúa.
Mỗi năm, mỗi tác giả có thể tham gia tối đa 05 bài dự thi, có thể gửi chung một lần hoặc nhiều lần.
6. Chỉ nhận bài dự thi qua điện thư email, gửi attach file với định dạng . doc (word), không nhận bài gởi qua đường bưu điện.
7. Đầu bài dự thi phải ghi rõ: họ và tên, bút danh, năm sinh, rửa tội tại đâu, năm nào, địa chỉ nhà, giáo xứ, giáo phận, số điện thoại liên lạc, địa chỉ email. Dù đã gởi nhiều email dự thi, đầu mỗi bài đều cần ghi như thế. Những bài thiếu các chi tiết này sẽ không được nhập hồ sơ dự thi.
8. Mỗi bài dự thi sẽ được nhập hồ sơ theo lần gởi đầu tiên, mọi chỉnh sửa về sau đều không được chấp nhận.
9. Địa chỉ nhận bài, xin gởi cùng lúc về 2 điện chỉ email: tinmunggiesu@gmail. com và gopnhattho@yahoo. com.
10. Thời gian nhận bài: trước ngày 01-3 mỗi năm. Những bài gửi về muộn hơn sẽ được đưa vào hồ sơ dự thi năm sau.
11. Tưởng thưởng: Mỗi năm sẽ có 06 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng, theo cơ cấu và sinh hoạt như sẽ nói dưới đây.
12. Kết quả cuộc thi hằng năm sẽ được công bố ngày 15-8 mỗi năm
13. Lễ trao giải vào ngày 22-9 mỗi năm.
14. Những tác giả được vào chung khảo mà không đạt giải sẽ được hỗ trợ một phần tiền xe về dự ngày họp mặt trao giải.
15. Các thông tin về cuộc thi sẽ được đăng trên trang mạng giáo phận Qui Nhơn http://www. gpquinhon. org và những trang mạng ủng hộ chương trình này.
16. Các tác phẩm đạt giải sẽ được in thành tuyển tập do Ban Tổ Chức giữ bản quyền.
II. TƯỞNG THƯỞNG
Cơ cấu giải thưởng
Mỗi năm, có 6 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng. :
- một giải nhất: 20. 000. 000 $VN
- hai giải nhì, mỗi giải 12. 000. 000 $VN
- ba giải ba, mỗi giải 8. 000. 000 $VN
- 15 giải triển vọng, mỗi giải 3. 000. 000 $VN
Tuyển tập truyện ngắn riêng
Ngoài phần thưởng bằng tiền mặt, những tác giả đạt giải, nếu có nhiều truyện khác có giá trị, sẽ được Tủ Sách Nước Mặn hỗ trợ xuất bản một tuyển tập riêng dưới 200 trang với những truyện ngắn mang nội dung Kitô giáo.
Những tác giả không đến dự lễ trao giải sẽ chỉ được nhận 50% tiền giải thưởng và không được hỗ trợ in tuyển tập riêng.
III. TƯỞNG THƯỞNG DÀNH CHO ĐỘC GIẢ
1. Bình chọn
Các truyện dự thi đã qua vòng sơ tuyển sẽ lần lượt được đưa lên mạng internet. Mời độc giả tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
2. Giúp phát hiện trường hợp sao chép
Những độc giả giúp phát hiện đầu tiên những bài dự thi sao chép của người khác (xin ghi rõ xuất xứ bài gốc) sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Ban Tổ Chức chân thành biết ơn sự giúp đỡ của các ân nhân. Các hỗ trợ tiền bạc hoặc hiện vật cho cuộc thi xin gởi về: Linh mục Võ Tá Khánh, 116 Trần Hưng Đạo, TP Qui Nhơn – Email: gopnhattho@yahoo. com – Điện thoại: 0935-424-449.
Qui Nhơn, ngày 21-9-2013
(Điều chỉnh ngày 04-10-2013)
TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC
Lm Gioan Phêrô Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự)
Trưởng Ban MV Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn