Một trong các điểm mạnh trong các lời giảng dạy của Đức Phanxicô là đơn giản, tìm cách để người nghe dễ nắm vững các điều ngài giảng dạy và do đó, dễ nhớ, dễ đem ra áp dụng. Ngài đặc biệt muốn các giảng viên giáo lý áp dụng phương pháp này. Bởi thế trong loạt bài nói về phương pháp giảng dạy của Đức Phanxicô, trước nhất, chúng tôi mời độc giả nghe chính bài nói chuyện của ngài với các giảng viên giáo lý tham dự Đại Hội Giảng Viên Giáo Lý Quốc Tế tại Rôma ngày 27 tháng Chín năm 2013. Trong bài nói chuyện này ngài đặc biệt giới thiệu phương pháp ba điểm hết sức cổ điển của Dòng Tên. Ngoài ra, nhân các lời giảng dạy của ngài mà một số người cho là cấp tiến, khó nghe, chúng tôi xin trình bầy một khía cạnh khác trong phương pháp giảng dạy của Đức Phanxicô: lúc nào, ngài cũng dựa vào Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo.
I. Bài nói chuyện với Đại Hội Giảng Viên Giáo Lý Quốc Tế năm 2013
Các giảng viên giáo lý thân mến, chào các con!
Cha rất vui khi cuộc tụ họp này được tổ chức cho Năm Đức Tin. Giáo Lý là cột trụ của việc giáo dục đức tin và chúng ta cần các giảng viên giáo lý tốt! Cha cám ơn các con về việc các con phục vụ cho Giáo Hội và trong Giáo Hội. Ngay trong các thời điểm khó khăn và đòi phải làm việc nhiều, và dù kết quả không luôn như điều ta hy vọng, giảng dạy đức tin là một điều tốt đẹp! Có lẽ đây là di sản tốt nhất ta có thể truyền lại: đức tin! Giáo dục về đức tin, làm nó lớn lên. Giúp các em nhỏ, các người trẻ và người lớn biết và mến Chúa mỗi ngày một hơn là một trong các khía cạnh hứng thú nhất của giáo dục. Nó xây đắp Giáo Hội! “Là” giảng viên giáo Lý! Không “làm việc” như giảng viên giáo lý: việc này không ích lợi gì. Tôi làm việc như một giảng viên giáo lý vì tôi thích dạy [giáo lý]… Nhưng nếu không “là” giảng viên giáo lý, thì các con chẳng ích lợi gì! Các con sẽ không thành công… các con không đem lại hoa trái gì! Giáo lý là một ơn gọi: “là một giảng viên giáo lý”, đó là một ơn gọi, chứ không phải làm việc như một giảng viên giáo lý. Bởi thế, các con hãy ghi nhớ: cha không nói phải làm công việc của giảng viên giáo lý, nhưng phải “là” các giảng viên giáo lý, vì đây là một điều bao trùm trọn cả cuộc sống ta. Nó có nghĩa dẫn người ta tới gặp gỡ Chúa Kitô bằng lời và bằng cuộc sống ta, qua việc làm chứng. Các con hãy nhớ điều Đức Bênêđíctô từng nói: “Giáo Hội không phát triển nhờ việc cải đạo (proselytizing); Giáo Hội phát triển nhờ việc lôi cuốn người khác”. Và điều lôi cuốn người ta chính là chứng tá của ta. Là giảng viên giáo lý có nghĩa làm chứng cho đức tin, nhất quán trong cuộc sống bản thân của ta. Điều này không dễ! Ta giúp, ta dẫn người khác tới Chúa Giêsu bằng lời nói và cuộc sống ta, bằng chứng tá của ta. Cha thích nhắc lại điều thánh Phanxicô thành Assidi hay nói với các tu sĩ của ngài: “Hãy luôn rao giảng Tin Mừng; nếu cần, dùng lời lẽ”. Lời sẽ đến… nhưng chứng tá phải đến đầu tiên: người ta nên nhìn thấy Tin Mừng, đọc Tin Mừng trong cuộc sống ta. “Là” giảng viên giáo lý đòi phải có tình yêu, một tình yêu luôn lớn hơn đối với Chúa Giêsu, một tình yêu đối với dân thánh của Người. Và tình yêu này không thể mua ở các cửa tiệm, dù là tại Rôma. Tình yêu này phát xuất từ Chúa Kitô! Nó là hồng ân của Chúa Kitô! Và nếu phát xuất từ Chúa Kitô, nó cũng khởi đầu với Chúa Kitô, và ta cũng cần khởi đầu mới mẻ với Chúa Kitô, từ tình yêu Người dành cho ta. Khởi đầu mới mẻ từ Chúa Kitô có nghĩa gì đối với một giảng viên giáo lý? Đối với chúng con, nhưng cũng đối với cả cha nữa, vì cha cũng là một giảng viên giáo lý? Vậy nó có nghĩa gì?
Cha sẽ nói về ba điều: một, hai, ba, theo cách của các tu sĩ Dòng Tên thời xưa… oẳn, tù, tì!!
1. Trước nhất, [oẳn!], khởi đầu mới mẻ từ Chúa Kitô nghĩa là gần gũi với Người, gần gũi với Chúa Giêsu, chính Người nhấn mạnh tới sự quan trọng của điều này với các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly, khi Người chuẩn bị ban cho ta hồng phúc tình yêu lớn nhất của Người, là hy sinh trên Thánh Giá. Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây nho và cành mà nói: các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy, hãy luôn gắn bó với Thầy, như cành gắn bó với cây nho. Nếu chúng ta kết hợp với Người, thì chúng ta sẽ có khả năng đâm trái đâm bông. Đó là ý nghĩa của việc gần gũi Chúa Kitô. Hãy ở trong Chúa Giêsu! Điều này có nghĩa liên tục gắn bó với Người, ở trong Người, ở với Người, chuyện vãn với Người. Hãy ở trong Chúa Giêsu!
Đối với một môn đệ, điều đầu tiên là ở với Thầy mình, lắng nghe Người và học ở Người. Điều ấy đúng và đúng ở mọi thời điểm đời ta. Cha còn nhớ, trong giáo phận, giáo phận kia cơ, tức giáo phận cha phụ trách đầu tiên, cha thường thấy các giảng viên giáo lý kết thúc khóa huấn luyện bằng câu “con có tước giảng viên giáo lý rồi!”. Điều này vô nghĩa, bạn chẳng có gì cả, bạn đã hành trình bao nhiêu đâu. Nó có ích gì cho bạn đâu? Điều sau mới đúng. Là giáo lý viên không phải là một cái tước, nó là một thái độ: ở trong Người, và điều này mới kéo dài cả đời người. Cha hỏi các con: các con ở trước nhan Chúa như thế nào? Khi các con viếng Chúa, khi các con ngắm nhìn nhà tạm, các con làm gì? Không nói gì cả… “Nhưng con có nói, con nói, con suy nghĩ, con suy niệm, con lắng nghe…” Rất tốt! Nhưng các con có để Chúa ngắm các con không? Để Chúa ngắm chúng ta. Người nhìn chúng ta và điều này tự nó đã là một cách cầu nguyện rồi. Các con có để Chúa ngắm các con không?
Nhưng các con làm điều trên cách nào? Các con nhìn nhà tạm và các con để Chúa ngắm… Đơn giản thế thôi! “Làm thế hơi tẻ nhạt, con phát buồn ngủ”. Thì cứ ngủ đi, ngủ đi! Người vẫn ngắm các con. Nhưng các con hãy biết chắc rằng Người đang nhìn các con! Điều này quan trọng hơn việc có tước giảng viên giáo lý. Nó là một phần của việc “là” giảng viên giáo lý. Điều này làm ấm tâm hồn ta, đốt lên ngọn lửa thân hữu với Chúa, làm các con cảm thấy Người thực sự nhìn các con, Người gần gũi các con và yêu thương các con. Ở Rôma này, nhân một cuộc viếng thăm của cha, trong Thánh Lễ, một người đàn ông còn rất trẻ đến gặp cha mà nói “Thưa cha, gặp cha quả là tuyệt, nhưng con không tin gì cả! Con không có hồng ân đức tin!”. Nhưng anh ta hiểu đức tin là một hồng ân. “Con không có hồng ân đức tin! Cha có gì để nói với con đây?” “Con đừng ngã lòng. Thiên Chúa yêu thương con. Cứ để cho Người ngắm con! Không cần làm gì khác”. Và đó là điều cha muốn nói với các con: Hãy để Chúa ngắm các con! Cha hiểu đối với các con điều này không dễ; nhất là đối với những người đã kết hôn và có con cái, quả là khó mà tìm được một khoảng thời gian dài để yên tĩnh. Ấy thế nhưng, tạ ơn Chúa, không cần mọi người phải hành động cùng một lối như nhau. Trong Giáo Hội, có hàng loạt các ơn gọi và linh đạo khác nhau. Điều quan trọng là tìm ra lối thích đáng nhất để các con ở với Chúa, và điều đó ai cũng có thể làm được; bất cứ sống bậc sống nào. Bây giờ, mỗi người các con có thể hỏi: con làm sao cảm nghiệm được việc “ở” với Chúa Giêsu? Đây là một câu hỏi cha để các con (tự trả lời): “tôi làm sao cảm nghiệm được việc ở lại với Chúa Giêsu, ở trong Chúa Giêsu? Tôi có tìm được thì giờ để ở trước mặt Người, trong im lặng, để Người ngắm tôi không? Tôi có để ngọn lửa của Người sưởi ấm tâm hồn tôi không? Nếu sự ấm áp của Thiên Chúa, của tình yêu Người, của sự dịu dàng của Người không hiện diện trong tâm hồn ta, thì làm sao ta, những kẻ tội lỗi, lại có thể sưởi ấm tâm hồn người khác? Các con hãy nghĩ tới điều đó!
2. Yếu tố thứ hai, tù!, là: khởi đầu mới mẻ từ Chúa Kitô nghĩa là bắt chước Người bằng cách để mình lại phía sau và ra đi gặp gỡ người khác. Đây là một cảm nghiệm đẹp đẽ, nhưng khá nghịch lý. Tại sao? Vì khi ta đặt Chúa Kitô vào tâm điểm đời ta, ta không còn trở thành tâm điểm nữa! Các con càng kết hợp với Chúa Kitô và Người càng trở nên tâm điểm đời các con, Người càng dẫn các con ra khỏi các con, dẫn các con ra khỏi việc biến các con thành tâm điểm và mở lòng các con cho người khác. Đây quả là năng động tính đích thực của tình yêu, đây là chuyển động của chính Thiên Chúa! Thiên Chúa là trung tâm, nhưng Người luôn là tự hiến, liên hệ, yêu thương tự ý cho đi… và đó là điều ta sẽ trở nên nếu ta tiếp tục kết hợp với Chúa Kitô. Người sẽ lôi cuốn ta vào tính năng động của tình yêu này. Nơi có sự sống thực trong Chúa Kitô, nơi phát sinh ra sự cởi mở đối với người khác, và do đó có việc ra khỏi chính mình để gặp gỡ người khác nhân danh Chúa Kitô. Và đó là công việc của giảng viên giáo lý: không ngừng ra đi gặp gỡ người khác vì yêu thương, làm chứng cho Chúa Giêsu và nói về Chúa Giêsu, công bố về Người. Điều này quan trọng vì Chúa cũng đã làm thế: chính Chúa đã thúc đẩy chúng ta ra đi.
Trái tim giảng viên giáo lý luôn đập với chuyển động tâm thu (systolic) và tâm trương (diastolic) này: kết hợp với Chúa Kitô và gặp gỡ người khác. Cả hai điều ấy: tôi là một với Chúa Giêsu và tôi ra đi gặp gỡ người khác. Nếu thiếu một trong hai chuyển động này, trái tim sẽ không đập nữa, nó sẽ không sống được nữa. Trái tim giảng viên giáo lý nhận được hồng phúc sơ truyền (kerygma), thì ngược lại, nó phải hiến tặng điều ấy cho người khác như một hồng phúc. Cái chữ “hồng phúc” nhỏ nhoi này tuyệt xiết bao! Người giảng viên giáo lý ý thức mình đã nhận được một hồng phúc, hồng phúc đức tin, thì đến lượt họ, họ phải cho người khác hồng phúc ấy. Đây quả là một điều đẹp đẽ. Ta sẽ không giữ dù là một phần trăm cho riêng mình! Nhận được bất cứ điều gì, ta phải cho đi! Đây không phải là thương mại! Đây không phải là kinh doanh! Nó là hồng phúc nguyên tuyền: một hồng phúc nhận được và một hồng phúc cho đi. Và người giảng viên giáo lý ở ngay đó, ở ngay tâm điểm của việc trao đổi các hồng phúc này. Đó cũng chính là bản chất của sơ truyền: sơ truyền là hồng phúc phát sinh truyền giáo, thúc đẩy ta ra khỏi chính mình. Thánh Phaolô nói rằng “Tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta”, nhưng “việc thúc đẩy” này cũng có thể phiên dịch là “chiếm hữu ta”. Và đúng như thế: tình yêu lôi cuốn ta và sai ta ra đi; nó kéo ta vào và ban ta cho người khác. Sự căng thẳng này là biểu hiệu của trái tim người Kitô hữu, nhất là trái tim người giảng viên giáo lý. Tất cả chúng ta hãy tự hỏi mình: có phải đây là điều khiến trái tim đập như một giảng viên giáo lý: kết hợp với Chúa Kitô và gặp gỡ người khác? Với chuyển động của “tâm thu và tâm trương”? Ta có được nuôi dưỡng bằng mối liên hệ của ta với Chúa để ta đem Người tới cho người khác, chứ không giữ lấy cho chính ta không? Cha cho các con hay, cha không hiểu làm thế nào một giảng viên giáo lý lại có thể ngồi một chỗ (stationary), mà không chuyển động như thế. Cha không hiểu!
3. Yếu tố thứ ba, tì ! là như thế này: khởi đầu mới mẻ từ Chúa Kitô nghĩa là không sợ cùng đi với Người ra các vùng ngoại biên. Ở đây, cha nghĩ tới câu truyện tiên tri Giôna, một nhân vật thực sự đáng lưu ý, nhất là đối với thời có những thay đổi và bất trắc lớn lao như ngày nay. Giôna là một người đạo hạnh, có một nếp sống thanh thản và ngăn nắp khiến ông có lối nhìn rõ ràng đối với sự vật và phán đoán mọi sự và mọi người theo lối nhìn đó. Ông hình dung sẵn hết: đây là sự thật! Quá cứng cỏi! Do đó, khi Chúa gọi ông và bảo ông ra đi giảng dạy Thành Ninivê, một thành ngoại giáo, Giôna không thích. “Đến đó ư? Nhưng ở đây, tôi có trọn sự thật mà!” Ông không thích đi. Ninivê nằm ngoài vùng thoải mái của ông; nó nằm ở ngoại biên thế giới. Nên ông bỏ trốn, lên đường qua Tây Ban Nha; ông chạy trốn và đáp tầu qua đó. Các con hãy đi đọc lại Sách Giôna! Sách này ngắn thôi, nhưng đây là một dụ ngôn đầy tính giáo huấn, nhất là đối với chúng ta trong Giáo Hội.
Tất cả các chi tiết trên dạy ta điều gì? Chúng dạy ta đừng sợ vượt qua vùng thoải mái của ta để bước chân theo Chúa, vì Chúa luôn thúc đẩy, luôn thúc ép ta tiến bước. Nhưng các con có biết điều này không? Chúa không sợ! Các con có hiểu điều đó không? Người không sợ. Người luôn lớn hơn lối nhìn sự việc của chúng ta! Chúa không sợ các vùng ngoại biên. Nếu các con ra các vùng ngoại biên, các con sẽ thấy Người ở đó. Chúa luôn trung tín và sáng tạo. Nhưng, thực sự, liệu có giáo lý viên nào mà lại không có tinh thần sáng tạo đâu? Tính sáng tạo là điều nâng đỡ các giảng viên giáo lý chúng ta. Chúa là Đấng sáng tạo, Người không khép kín, và do đó, Người không bao giờ cứng ngắc. Thiên Chúa không cứng ngắc! Người đón chào chúng ta; Người gặp gỡ chúng ta; Người hiểu chúng ta. Trung thành, sáng tạo; ta cần khả năng biết thay đổi. Thay đổi! Nhưng tại sao tôi phải thay đổi? Để tôi thích ứng với các hoàn cảnh trong đó, tôi phải công bố Tin Mừng. Muốn gần gũi Thiên Chúa, ta cần biết cách lên đường, ta không được sợ lên đường. Nếu một giảng viên giáo lý đầu hàng sợ sệt, thì họ là một người nhát đảm. Nếu một giảng viên giáo lý dễ dãi với sợ sệt, thì kết cục họ sẽ trở thành một bức tượng trong viện bảo tàng. Chúng ta có cả hàng đống những thứ này! Xin các con làm ơn, đừng chất thêm những bức tượng như thế nữa vào viện bảo tàng! Nếu một giáo lý viên mà cứng ngắc, họ sẽ khô héo và tàn tạ. Cha hỏi các con: có ai trong các con muốn làm người nhát đảm, một bức tượng trong viện bảo tàng, khô héo và tàn tạ không? Có phải đó là điều các con muốn không? [các giảng viên giáo lý thưa: không]. Không sao? Các con có chắc chắn không? Tốt! Cha sẽ nói lại một điều cha vốn đã nói nhiều lần trước đây, nhưng nó phát xuất từ trái tim cha. Bất cứ khi nào, chúng ta, người Kitô hữu, tự khép kín mình trong các nhóm của mình, trong các phong trào của mình, trong các giáo xứ của mình, trong các thế giới nhỏ bé của mình, ta sẽ mãi khép kín và điều xẩy ra cho ta cũng là điều xẩy ra cho bất cứ điều gì bị khép kín: khi căn phòng khóa kín, nó bắt đầu ẩm ướt. Nếu ai bị khóa kín trong căn phòng như thế, họ sẽ bị bệnh! Bất cứ khi nào người Kitô hữu khép kín trong các nhóm, các giáo xứ hay các phong trào của mình, họ sẽ lâm bệnh. Nếu một Kitô hữu ra ngoài phố, hay ra các khu ngoại biên, họ dám gặp cùng những điều thông thường vẫn xẩy ra cho bất cứ ai ở ngoài đó: tai nạn. Ta thường thấy biết bao tai nạn trên đường phố! Nhưng cha bảo các con: cha thích một Giáo Hội bầm tím ngàn lần nhiều hơn một Giáo Hội bệnh hoạn! Một Giáo Hội, một giảng viên giáo lý, có can đảm liều bước ra ngoài, chứ không phải một giáo lý viên chăm chỉ, biết mọi sự, nhưng luôn khép kín: người như thế không khỏe. Và đôi khi không khỏe cả ở trong đầu…
Nhưng xin các con cẩn thận! Chúa Giêsu không nói: Ra ngoài và muốn làm gì thì làm, tùy ý. Không! Đó không phải là điều Người nói. Điều Chúa Giêsu nói là: Hãy đi, vì Thầy ở với các con! Đó là điều rất đẹp đối với chúng ta; đó là điều hướng dẫn chúng ta. Nếu ta ra ngoài, mang theo Tin Mừng của Người trong yêu thương, trong tinh thần tông đồ đích thực, trong parrhesia (mạnh dạn), thì Người sẽ bước đi với chúng ta, bước trước chúng ta, Người sẽ đến đó trước nhất. Như chúng tôi thường nói trong tiếng Tây Ban Nha primerea (người đến trước nhất). Đến đây, các con biết cha muốn nói gì. Cũng cùng là điều Sách Thánh dạy chúng ta. Trong Sách Thánh, Chúa dạy: Ta như hoa hạnh nhân. Tại sao? Vì đó là hoa đầu tiên nở trong mùa xuân. Người luôn là người thứ nhất! Đây là điều nền tảng đối với chúng ta: Thiên Chúa luôn ở trước ta! Khi ta nghĩ tới việc đi xa, tới những khu tận cùng ngoại biên, ta hơi sợ sệt, nhưng thực ra, Chúa đã ở đó rồi. Chúa Giêsu đang chờ ta trong trái tim anh chị em ta, trong thân xác đầy thương tích của họ, trong các khó nhọc của họ, trong cảnh thiếu đức tin của họ. Nhưng xin để cha cho các con hay một trong các “vùng ngoại biên” làm tan nát tâm hồn cha. Nó xẩy ra tại giáo phận đầu tiên của cha. Đó là các trẻ em đến thánh giá cũng không biết làm. Ở Buenos Aires, có rất nhiều trẻ em không biết làm dấu thánh giá. Đó là một trong các “khu ngoại biên”! Nhưng Chúa Giêsu đã ở đó, chờ các con tới giúp đứa trẻ đó làm dấu thánh giá. Người luôn ở đó trước nhất.
Các giảng viên giáo lý thân mến, cha đã đưa ra ba điểm. Các con hãy luôn khởi đầu mới mẻ từ Chúa Kitô! Cha cám ơn các con về mọi điều các con đang làm, nhưng trên hết, vì các con là thành phần của Giáo Hội, dân lữ hành của Thiên Chúa, và các con đồng hành với dân Chúa trong cuộc lữ hành này. Chúng ta hãy luôn ở với Chúa Kitô, ở trong Chúa Kitô, và hãy cố gắng trở nên một với Người. Chúng ta hãy bước theo Người, hãy bắt chước Người trong chuyển động yêu thương của Người, trong việc Người ra đi gặp gỡ nhân loại. Chúng ta hãy ra đi và mở cửa. Chúng ta hãy mạnh dạn đánh dấu các nẻo đường mới để công bố Tin Mừng.
Xin Chúa chúc lành cho các con và xin Mẹ Diễm Phúc ở bên cạnh các con luôn luôn. Cha cám ơn các con! Đức Maria là Mẹ chúng ta, Đức Maria luôn dẫn chúng ta tới Chúa Giêsu! Ta hãy đọc cho nhau một kinh kính Đức Mẹ [Kính mừng Maria], [Phép lành] Cha cám ơn các con rất nhiều!
(Còn tiếp)
I. Bài nói chuyện với Đại Hội Giảng Viên Giáo Lý Quốc Tế năm 2013
Các giảng viên giáo lý thân mến, chào các con!
Cha rất vui khi cuộc tụ họp này được tổ chức cho Năm Đức Tin. Giáo Lý là cột trụ của việc giáo dục đức tin và chúng ta cần các giảng viên giáo lý tốt! Cha cám ơn các con về việc các con phục vụ cho Giáo Hội và trong Giáo Hội. Ngay trong các thời điểm khó khăn và đòi phải làm việc nhiều, và dù kết quả không luôn như điều ta hy vọng, giảng dạy đức tin là một điều tốt đẹp! Có lẽ đây là di sản tốt nhất ta có thể truyền lại: đức tin! Giáo dục về đức tin, làm nó lớn lên. Giúp các em nhỏ, các người trẻ và người lớn biết và mến Chúa mỗi ngày một hơn là một trong các khía cạnh hứng thú nhất của giáo dục. Nó xây đắp Giáo Hội! “Là” giảng viên giáo Lý! Không “làm việc” như giảng viên giáo lý: việc này không ích lợi gì. Tôi làm việc như một giảng viên giáo lý vì tôi thích dạy [giáo lý]… Nhưng nếu không “là” giảng viên giáo lý, thì các con chẳng ích lợi gì! Các con sẽ không thành công… các con không đem lại hoa trái gì! Giáo lý là một ơn gọi: “là một giảng viên giáo lý”, đó là một ơn gọi, chứ không phải làm việc như một giảng viên giáo lý. Bởi thế, các con hãy ghi nhớ: cha không nói phải làm công việc của giảng viên giáo lý, nhưng phải “là” các giảng viên giáo lý, vì đây là một điều bao trùm trọn cả cuộc sống ta. Nó có nghĩa dẫn người ta tới gặp gỡ Chúa Kitô bằng lời và bằng cuộc sống ta, qua việc làm chứng. Các con hãy nhớ điều Đức Bênêđíctô từng nói: “Giáo Hội không phát triển nhờ việc cải đạo (proselytizing); Giáo Hội phát triển nhờ việc lôi cuốn người khác”. Và điều lôi cuốn người ta chính là chứng tá của ta. Là giảng viên giáo lý có nghĩa làm chứng cho đức tin, nhất quán trong cuộc sống bản thân của ta. Điều này không dễ! Ta giúp, ta dẫn người khác tới Chúa Giêsu bằng lời nói và cuộc sống ta, bằng chứng tá của ta. Cha thích nhắc lại điều thánh Phanxicô thành Assidi hay nói với các tu sĩ của ngài: “Hãy luôn rao giảng Tin Mừng; nếu cần, dùng lời lẽ”. Lời sẽ đến… nhưng chứng tá phải đến đầu tiên: người ta nên nhìn thấy Tin Mừng, đọc Tin Mừng trong cuộc sống ta. “Là” giảng viên giáo lý đòi phải có tình yêu, một tình yêu luôn lớn hơn đối với Chúa Giêsu, một tình yêu đối với dân thánh của Người. Và tình yêu này không thể mua ở các cửa tiệm, dù là tại Rôma. Tình yêu này phát xuất từ Chúa Kitô! Nó là hồng ân của Chúa Kitô! Và nếu phát xuất từ Chúa Kitô, nó cũng khởi đầu với Chúa Kitô, và ta cũng cần khởi đầu mới mẻ với Chúa Kitô, từ tình yêu Người dành cho ta. Khởi đầu mới mẻ từ Chúa Kitô có nghĩa gì đối với một giảng viên giáo lý? Đối với chúng con, nhưng cũng đối với cả cha nữa, vì cha cũng là một giảng viên giáo lý? Vậy nó có nghĩa gì?
Cha sẽ nói về ba điều: một, hai, ba, theo cách của các tu sĩ Dòng Tên thời xưa… oẳn, tù, tì!!
1. Trước nhất, [oẳn!], khởi đầu mới mẻ từ Chúa Kitô nghĩa là gần gũi với Người, gần gũi với Chúa Giêsu, chính Người nhấn mạnh tới sự quan trọng của điều này với các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly, khi Người chuẩn bị ban cho ta hồng phúc tình yêu lớn nhất của Người, là hy sinh trên Thánh Giá. Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây nho và cành mà nói: các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy, hãy luôn gắn bó với Thầy, như cành gắn bó với cây nho. Nếu chúng ta kết hợp với Người, thì chúng ta sẽ có khả năng đâm trái đâm bông. Đó là ý nghĩa của việc gần gũi Chúa Kitô. Hãy ở trong Chúa Giêsu! Điều này có nghĩa liên tục gắn bó với Người, ở trong Người, ở với Người, chuyện vãn với Người. Hãy ở trong Chúa Giêsu!
Đối với một môn đệ, điều đầu tiên là ở với Thầy mình, lắng nghe Người và học ở Người. Điều ấy đúng và đúng ở mọi thời điểm đời ta. Cha còn nhớ, trong giáo phận, giáo phận kia cơ, tức giáo phận cha phụ trách đầu tiên, cha thường thấy các giảng viên giáo lý kết thúc khóa huấn luyện bằng câu “con có tước giảng viên giáo lý rồi!”. Điều này vô nghĩa, bạn chẳng có gì cả, bạn đã hành trình bao nhiêu đâu. Nó có ích gì cho bạn đâu? Điều sau mới đúng. Là giáo lý viên không phải là một cái tước, nó là một thái độ: ở trong Người, và điều này mới kéo dài cả đời người. Cha hỏi các con: các con ở trước nhan Chúa như thế nào? Khi các con viếng Chúa, khi các con ngắm nhìn nhà tạm, các con làm gì? Không nói gì cả… “Nhưng con có nói, con nói, con suy nghĩ, con suy niệm, con lắng nghe…” Rất tốt! Nhưng các con có để Chúa ngắm các con không? Để Chúa ngắm chúng ta. Người nhìn chúng ta và điều này tự nó đã là một cách cầu nguyện rồi. Các con có để Chúa ngắm các con không?
Nhưng các con làm điều trên cách nào? Các con nhìn nhà tạm và các con để Chúa ngắm… Đơn giản thế thôi! “Làm thế hơi tẻ nhạt, con phát buồn ngủ”. Thì cứ ngủ đi, ngủ đi! Người vẫn ngắm các con. Nhưng các con hãy biết chắc rằng Người đang nhìn các con! Điều này quan trọng hơn việc có tước giảng viên giáo lý. Nó là một phần của việc “là” giảng viên giáo lý. Điều này làm ấm tâm hồn ta, đốt lên ngọn lửa thân hữu với Chúa, làm các con cảm thấy Người thực sự nhìn các con, Người gần gũi các con và yêu thương các con. Ở Rôma này, nhân một cuộc viếng thăm của cha, trong Thánh Lễ, một người đàn ông còn rất trẻ đến gặp cha mà nói “Thưa cha, gặp cha quả là tuyệt, nhưng con không tin gì cả! Con không có hồng ân đức tin!”. Nhưng anh ta hiểu đức tin là một hồng ân. “Con không có hồng ân đức tin! Cha có gì để nói với con đây?” “Con đừng ngã lòng. Thiên Chúa yêu thương con. Cứ để cho Người ngắm con! Không cần làm gì khác”. Và đó là điều cha muốn nói với các con: Hãy để Chúa ngắm các con! Cha hiểu đối với các con điều này không dễ; nhất là đối với những người đã kết hôn và có con cái, quả là khó mà tìm được một khoảng thời gian dài để yên tĩnh. Ấy thế nhưng, tạ ơn Chúa, không cần mọi người phải hành động cùng một lối như nhau. Trong Giáo Hội, có hàng loạt các ơn gọi và linh đạo khác nhau. Điều quan trọng là tìm ra lối thích đáng nhất để các con ở với Chúa, và điều đó ai cũng có thể làm được; bất cứ sống bậc sống nào. Bây giờ, mỗi người các con có thể hỏi: con làm sao cảm nghiệm được việc “ở” với Chúa Giêsu? Đây là một câu hỏi cha để các con (tự trả lời): “tôi làm sao cảm nghiệm được việc ở lại với Chúa Giêsu, ở trong Chúa Giêsu? Tôi có tìm được thì giờ để ở trước mặt Người, trong im lặng, để Người ngắm tôi không? Tôi có để ngọn lửa của Người sưởi ấm tâm hồn tôi không? Nếu sự ấm áp của Thiên Chúa, của tình yêu Người, của sự dịu dàng của Người không hiện diện trong tâm hồn ta, thì làm sao ta, những kẻ tội lỗi, lại có thể sưởi ấm tâm hồn người khác? Các con hãy nghĩ tới điều đó!
2. Yếu tố thứ hai, tù!, là: khởi đầu mới mẻ từ Chúa Kitô nghĩa là bắt chước Người bằng cách để mình lại phía sau và ra đi gặp gỡ người khác. Đây là một cảm nghiệm đẹp đẽ, nhưng khá nghịch lý. Tại sao? Vì khi ta đặt Chúa Kitô vào tâm điểm đời ta, ta không còn trở thành tâm điểm nữa! Các con càng kết hợp với Chúa Kitô và Người càng trở nên tâm điểm đời các con, Người càng dẫn các con ra khỏi các con, dẫn các con ra khỏi việc biến các con thành tâm điểm và mở lòng các con cho người khác. Đây quả là năng động tính đích thực của tình yêu, đây là chuyển động của chính Thiên Chúa! Thiên Chúa là trung tâm, nhưng Người luôn là tự hiến, liên hệ, yêu thương tự ý cho đi… và đó là điều ta sẽ trở nên nếu ta tiếp tục kết hợp với Chúa Kitô. Người sẽ lôi cuốn ta vào tính năng động của tình yêu này. Nơi có sự sống thực trong Chúa Kitô, nơi phát sinh ra sự cởi mở đối với người khác, và do đó có việc ra khỏi chính mình để gặp gỡ người khác nhân danh Chúa Kitô. Và đó là công việc của giảng viên giáo lý: không ngừng ra đi gặp gỡ người khác vì yêu thương, làm chứng cho Chúa Giêsu và nói về Chúa Giêsu, công bố về Người. Điều này quan trọng vì Chúa cũng đã làm thế: chính Chúa đã thúc đẩy chúng ta ra đi.
Trái tim giảng viên giáo lý luôn đập với chuyển động tâm thu (systolic) và tâm trương (diastolic) này: kết hợp với Chúa Kitô và gặp gỡ người khác. Cả hai điều ấy: tôi là một với Chúa Giêsu và tôi ra đi gặp gỡ người khác. Nếu thiếu một trong hai chuyển động này, trái tim sẽ không đập nữa, nó sẽ không sống được nữa. Trái tim giảng viên giáo lý nhận được hồng phúc sơ truyền (kerygma), thì ngược lại, nó phải hiến tặng điều ấy cho người khác như một hồng phúc. Cái chữ “hồng phúc” nhỏ nhoi này tuyệt xiết bao! Người giảng viên giáo lý ý thức mình đã nhận được một hồng phúc, hồng phúc đức tin, thì đến lượt họ, họ phải cho người khác hồng phúc ấy. Đây quả là một điều đẹp đẽ. Ta sẽ không giữ dù là một phần trăm cho riêng mình! Nhận được bất cứ điều gì, ta phải cho đi! Đây không phải là thương mại! Đây không phải là kinh doanh! Nó là hồng phúc nguyên tuyền: một hồng phúc nhận được và một hồng phúc cho đi. Và người giảng viên giáo lý ở ngay đó, ở ngay tâm điểm của việc trao đổi các hồng phúc này. Đó cũng chính là bản chất của sơ truyền: sơ truyền là hồng phúc phát sinh truyền giáo, thúc đẩy ta ra khỏi chính mình. Thánh Phaolô nói rằng “Tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta”, nhưng “việc thúc đẩy” này cũng có thể phiên dịch là “chiếm hữu ta”. Và đúng như thế: tình yêu lôi cuốn ta và sai ta ra đi; nó kéo ta vào và ban ta cho người khác. Sự căng thẳng này là biểu hiệu của trái tim người Kitô hữu, nhất là trái tim người giảng viên giáo lý. Tất cả chúng ta hãy tự hỏi mình: có phải đây là điều khiến trái tim đập như một giảng viên giáo lý: kết hợp với Chúa Kitô và gặp gỡ người khác? Với chuyển động của “tâm thu và tâm trương”? Ta có được nuôi dưỡng bằng mối liên hệ của ta với Chúa để ta đem Người tới cho người khác, chứ không giữ lấy cho chính ta không? Cha cho các con hay, cha không hiểu làm thế nào một giảng viên giáo lý lại có thể ngồi một chỗ (stationary), mà không chuyển động như thế. Cha không hiểu!
3. Yếu tố thứ ba, tì ! là như thế này: khởi đầu mới mẻ từ Chúa Kitô nghĩa là không sợ cùng đi với Người ra các vùng ngoại biên. Ở đây, cha nghĩ tới câu truyện tiên tri Giôna, một nhân vật thực sự đáng lưu ý, nhất là đối với thời có những thay đổi và bất trắc lớn lao như ngày nay. Giôna là một người đạo hạnh, có một nếp sống thanh thản và ngăn nắp khiến ông có lối nhìn rõ ràng đối với sự vật và phán đoán mọi sự và mọi người theo lối nhìn đó. Ông hình dung sẵn hết: đây là sự thật! Quá cứng cỏi! Do đó, khi Chúa gọi ông và bảo ông ra đi giảng dạy Thành Ninivê, một thành ngoại giáo, Giôna không thích. “Đến đó ư? Nhưng ở đây, tôi có trọn sự thật mà!” Ông không thích đi. Ninivê nằm ngoài vùng thoải mái của ông; nó nằm ở ngoại biên thế giới. Nên ông bỏ trốn, lên đường qua Tây Ban Nha; ông chạy trốn và đáp tầu qua đó. Các con hãy đi đọc lại Sách Giôna! Sách này ngắn thôi, nhưng đây là một dụ ngôn đầy tính giáo huấn, nhất là đối với chúng ta trong Giáo Hội.
Tất cả các chi tiết trên dạy ta điều gì? Chúng dạy ta đừng sợ vượt qua vùng thoải mái của ta để bước chân theo Chúa, vì Chúa luôn thúc đẩy, luôn thúc ép ta tiến bước. Nhưng các con có biết điều này không? Chúa không sợ! Các con có hiểu điều đó không? Người không sợ. Người luôn lớn hơn lối nhìn sự việc của chúng ta! Chúa không sợ các vùng ngoại biên. Nếu các con ra các vùng ngoại biên, các con sẽ thấy Người ở đó. Chúa luôn trung tín và sáng tạo. Nhưng, thực sự, liệu có giáo lý viên nào mà lại không có tinh thần sáng tạo đâu? Tính sáng tạo là điều nâng đỡ các giảng viên giáo lý chúng ta. Chúa là Đấng sáng tạo, Người không khép kín, và do đó, Người không bao giờ cứng ngắc. Thiên Chúa không cứng ngắc! Người đón chào chúng ta; Người gặp gỡ chúng ta; Người hiểu chúng ta. Trung thành, sáng tạo; ta cần khả năng biết thay đổi. Thay đổi! Nhưng tại sao tôi phải thay đổi? Để tôi thích ứng với các hoàn cảnh trong đó, tôi phải công bố Tin Mừng. Muốn gần gũi Thiên Chúa, ta cần biết cách lên đường, ta không được sợ lên đường. Nếu một giảng viên giáo lý đầu hàng sợ sệt, thì họ là một người nhát đảm. Nếu một giảng viên giáo lý dễ dãi với sợ sệt, thì kết cục họ sẽ trở thành một bức tượng trong viện bảo tàng. Chúng ta có cả hàng đống những thứ này! Xin các con làm ơn, đừng chất thêm những bức tượng như thế nữa vào viện bảo tàng! Nếu một giáo lý viên mà cứng ngắc, họ sẽ khô héo và tàn tạ. Cha hỏi các con: có ai trong các con muốn làm người nhát đảm, một bức tượng trong viện bảo tàng, khô héo và tàn tạ không? Có phải đó là điều các con muốn không? [các giảng viên giáo lý thưa: không]. Không sao? Các con có chắc chắn không? Tốt! Cha sẽ nói lại một điều cha vốn đã nói nhiều lần trước đây, nhưng nó phát xuất từ trái tim cha. Bất cứ khi nào, chúng ta, người Kitô hữu, tự khép kín mình trong các nhóm của mình, trong các phong trào của mình, trong các giáo xứ của mình, trong các thế giới nhỏ bé của mình, ta sẽ mãi khép kín và điều xẩy ra cho ta cũng là điều xẩy ra cho bất cứ điều gì bị khép kín: khi căn phòng khóa kín, nó bắt đầu ẩm ướt. Nếu ai bị khóa kín trong căn phòng như thế, họ sẽ bị bệnh! Bất cứ khi nào người Kitô hữu khép kín trong các nhóm, các giáo xứ hay các phong trào của mình, họ sẽ lâm bệnh. Nếu một Kitô hữu ra ngoài phố, hay ra các khu ngoại biên, họ dám gặp cùng những điều thông thường vẫn xẩy ra cho bất cứ ai ở ngoài đó: tai nạn. Ta thường thấy biết bao tai nạn trên đường phố! Nhưng cha bảo các con: cha thích một Giáo Hội bầm tím ngàn lần nhiều hơn một Giáo Hội bệnh hoạn! Một Giáo Hội, một giảng viên giáo lý, có can đảm liều bước ra ngoài, chứ không phải một giáo lý viên chăm chỉ, biết mọi sự, nhưng luôn khép kín: người như thế không khỏe. Và đôi khi không khỏe cả ở trong đầu…
Nhưng xin các con cẩn thận! Chúa Giêsu không nói: Ra ngoài và muốn làm gì thì làm, tùy ý. Không! Đó không phải là điều Người nói. Điều Chúa Giêsu nói là: Hãy đi, vì Thầy ở với các con! Đó là điều rất đẹp đối với chúng ta; đó là điều hướng dẫn chúng ta. Nếu ta ra ngoài, mang theo Tin Mừng của Người trong yêu thương, trong tinh thần tông đồ đích thực, trong parrhesia (mạnh dạn), thì Người sẽ bước đi với chúng ta, bước trước chúng ta, Người sẽ đến đó trước nhất. Như chúng tôi thường nói trong tiếng Tây Ban Nha primerea (người đến trước nhất). Đến đây, các con biết cha muốn nói gì. Cũng cùng là điều Sách Thánh dạy chúng ta. Trong Sách Thánh, Chúa dạy: Ta như hoa hạnh nhân. Tại sao? Vì đó là hoa đầu tiên nở trong mùa xuân. Người luôn là người thứ nhất! Đây là điều nền tảng đối với chúng ta: Thiên Chúa luôn ở trước ta! Khi ta nghĩ tới việc đi xa, tới những khu tận cùng ngoại biên, ta hơi sợ sệt, nhưng thực ra, Chúa đã ở đó rồi. Chúa Giêsu đang chờ ta trong trái tim anh chị em ta, trong thân xác đầy thương tích của họ, trong các khó nhọc của họ, trong cảnh thiếu đức tin của họ. Nhưng xin để cha cho các con hay một trong các “vùng ngoại biên” làm tan nát tâm hồn cha. Nó xẩy ra tại giáo phận đầu tiên của cha. Đó là các trẻ em đến thánh giá cũng không biết làm. Ở Buenos Aires, có rất nhiều trẻ em không biết làm dấu thánh giá. Đó là một trong các “khu ngoại biên”! Nhưng Chúa Giêsu đã ở đó, chờ các con tới giúp đứa trẻ đó làm dấu thánh giá. Người luôn ở đó trước nhất.
Các giảng viên giáo lý thân mến, cha đã đưa ra ba điểm. Các con hãy luôn khởi đầu mới mẻ từ Chúa Kitô! Cha cám ơn các con về mọi điều các con đang làm, nhưng trên hết, vì các con là thành phần của Giáo Hội, dân lữ hành của Thiên Chúa, và các con đồng hành với dân Chúa trong cuộc lữ hành này. Chúng ta hãy luôn ở với Chúa Kitô, ở trong Chúa Kitô, và hãy cố gắng trở nên một với Người. Chúng ta hãy bước theo Người, hãy bắt chước Người trong chuyển động yêu thương của Người, trong việc Người ra đi gặp gỡ nhân loại. Chúng ta hãy ra đi và mở cửa. Chúng ta hãy mạnh dạn đánh dấu các nẻo đường mới để công bố Tin Mừng.
Xin Chúa chúc lành cho các con và xin Mẹ Diễm Phúc ở bên cạnh các con luôn luôn. Cha cám ơn các con! Đức Maria là Mẹ chúng ta, Đức Maria luôn dẫn chúng ta tới Chúa Giêsu! Ta hãy đọc cho nhau một kinh kính Đức Mẹ [Kính mừng Maria], [Phép lành] Cha cám ơn các con rất nhiều!
(Còn tiếp)