Chuyện về một linh mục chạy lụt ở Louisiana
BATON ROUGE, La.25/09/05- Khi trận bão Katrina thổi vào bờ biển vùng Louisiana, Cha Dennis Hayes cũng như các cha bạn khác của Ngài quyết định chịu đụng trận bão ở lại giáo xứ. Ngài chỉ cầu xin vùng chung quanh nhà thờ St Louise de Marillac ở Arabi được bình yên vô sự.
Để tránh bão, cha rước mình thánh Chúa lên lầu hai của nhà trường xây bằng bêtông cốt sắt, Cha ở đó giữa đống hồ sơ của giáo xứ và con chó già Badooki, 13 tuổi. Cha Hayes cứ tưởng rằng cơn bão lúc tệ hại nhất là lúc bão thổi ngày 29 tháng 8. Nhưng Ngài đã không ngờ rằng sau đó cả vùng Arabi trần ngập nước như một biển hồ.
Cha kể lại: “Chỉ trong vòng có một tiếng đồng hồ, từ 8 đến 9 giờ sáng, nước đã nhận chìm nhà cửa và toàn bộ vùng nhà xứ. Rồi chỉ trong chốc lát, nước đã dâng lên đến dây điện mắc trên cột. Trong đêm đó tôi nghe thấy những tiếng than khóc, những tiếng người cầu cứu, kêu la”
Đến sáng hôm sau, các trực thăng bay trên đường phố cứu vớt người trên nóc nhà, ngọn cây. Ngay lúc ấy cha biết ngay rằng nước lụt sẽ không mau chóng rút đi.
Ngài kể với báo Clarion Herald của Tổng Giáo Phận New Orleans rằng “ Tôi bò ra ngoài cửa sổ, vẫy tay cầu cứu trực thăng. Phi công thả sợi dây và có người xuống kéo tôi lên máy bay.
Cha Hayes không còn chọn lựa nào khác, đành để Mình Thánh Chúa lại và con chó yêu qúy của ngài trên tầng hai của nhà trường giáo xứ. Chiếc trực thăng đưa cha từ nhà thờ St Louise de Marillac đến trại lính Jackson là nơi vệ binh quốc gia ở New Orleans dùng làm bộ chỉ huy. Trên máy bay cha mới nhìn thấy mức độ nước lụt bao la khủng khiếp như thế nào.
Cha nói: “ Bạn có thể nhìn thấy sóng nước bao la từ khu vực quận St. Bernard đến tận vịnh Mexico”.
Tại trại lính Jackson, mỗi người di tản được cấp phát một chai nước, một gói lương thực. Những người còn đủ sức khoẻ, được khuyến khích dùng con đê dọc theo bờ sông Mississippi để đi vào thành phố. Và cha Hayes nhận thấy mình đủ sức khoẻ để đi bộ vào vùng “chiến tranh”
Cha Hayes kể “ Giống y như là cuộc nổi loạn, nào là người ta, lính cứu hỏa, thú vật hoang dã, tàu bè đánh cá, hôi của, xe cộ, chó mèo lang thang”
Những người lính vũ trang khuyên cha đến một nơi an toàn trước khi giờ giới nghiêm ban đêm đến. Cha vội đi tới một chủng viện thì gặp một nhóm tù nhân đang ca hát và được di tản khỏi nhà tù trung ương.
Cha Hayes kể tiếp: “Nước ngập đến cổ, và chỗ này đầy dầu nhớt. Tôi nhảy lên cánh cổng nhà của một người thuê chung cư B.W. Cooper. Chủ nhà là bà Kelly, đúng bà là vị thánh thật, bà cho tôi một chiếc ghế, khăn và quần áo khô để mặc.
Ông bà chủ nhà đó cho tôi đồ ăn nước uống và dành một căn phòng trên lầu ba cho tôi nghỉ qua đêm. Sáng hôm sau, nước lại dâng lên nữa sát mí cầu thang”
Mọi người nói phải di tản đến vận động trường Superdome. Còn cha Hayes nói “có 600 chuyến xe buýt đang chờ ở đó để di tản người tị nạn.”
Nước ngập tới cổ nhưng cha Hayes dùng thùng đựng đá đề làm phao, cùng với đoàn người di tản, rời khỏi căn chung cư. Ngài biết tại vận động trường Superdome không phải là nơi trú ngụ thoải mái gì. Ngài đã không chuẩn bị gì cho những chuyện kinh hoàng sẽ xẩy ra tại một nơi danh tiếng của thành phố New Orleans.
Cha kể rằng cha thực sự có được cảm giác của người nghèo đã trải qua ở New Orleans”: Nào nước tiểu, phân bón nhà cầu đổ trào ra đường đi trong vận động trường. Nào các máy bán hàng bị phá hoại, khói bay khắp nới, tiếng người chửi bới nhau, nóng nực, trẻ nít khóc la, có vụ hỏa họan giữa ban đêm, hai phụ nữ sinh nở, trực thăng bị dưới bắn lên.
Đến rạng sáng cha Hayes rời vận động trường vì không thấy 600 chiếc xe buýt đâu. Ngài lại lội đi về Vương Cung Thánh Đường. Ngài qùy gối trước cửa nhà thờ cầu nguyện xin Chúa cứu chữa New Orleans.
Tình cờ cha Hayes gặp cảnh sát trưởng của vùng St Bernard là ông Jack Stevens. Ông nhớ ngay ra cha Hayes mà cách đấy 20 năm cha la cha xứ thờ Đức Mẹ Chalmette thuộc giáo xứ Prompt Succor. Ông Stevens nhờ cha Hayes giúp một tay trong công tác mục vụ giúp những người đang còn mắc kẹt trên nóc nhà hay trên ngọn cây.
Cha Kể : Tôi đi với ông Stevens đến vùng có sông rạch để cứu người. Đi lên đi xuống một cái nhà kho mà trong người tôi chỉ có hai thứ: cỗ tràng hạt và cây thánh giá. Nhiều người tỏ ra rất biết ơn. Một người được cứu sau khi ngâm trong nước ba ngày, còn vợ ông và 2 đứa con trai đã bị chết đưối trong nhà
Liên tiếp 10 ngày sau đó, cha Hayes và nhóm người thiên nguyện đầy nhiệt huyết cung cấp mục vụ cho các nạn nhân trận bảo Katrina, kể cả cho nững người đi cứu giúp người khác.
Và đương nhiên, sau đó cha đã trở về nhà thờ St. Louise de Marillac để cửu vớt Mình Thánh Chúa, con chó yêu thương của Ngài và hồ sơ của Giáo xứ. Trong hai ngày Chúa Nhật sau đó, ngài đã đưa mình thánh Chúa cho các người lính cứu hỏa, các người thi hành công tác khẩn cấp quanh vùng St Bernard, từ vùng Creole Queen đến nhà máy lọc dầu Exxon.
Cha kết luận: “Tôi đã gặp nhiều người và họ đã cho tôi thấy thế nào thực sự là tình nhân đạo và thánh thiêng”.
BATON ROUGE, La.25/09/05- Khi trận bão Katrina thổi vào bờ biển vùng Louisiana, Cha Dennis Hayes cũng như các cha bạn khác của Ngài quyết định chịu đụng trận bão ở lại giáo xứ. Ngài chỉ cầu xin vùng chung quanh nhà thờ St Louise de Marillac ở Arabi được bình yên vô sự.
Để tránh bão, cha rước mình thánh Chúa lên lầu hai của nhà trường xây bằng bêtông cốt sắt, Cha ở đó giữa đống hồ sơ của giáo xứ và con chó già Badooki, 13 tuổi. Cha Hayes cứ tưởng rằng cơn bão lúc tệ hại nhất là lúc bão thổi ngày 29 tháng 8. Nhưng Ngài đã không ngờ rằng sau đó cả vùng Arabi trần ngập nước như một biển hồ.
Cha kể lại: “Chỉ trong vòng có một tiếng đồng hồ, từ 8 đến 9 giờ sáng, nước đã nhận chìm nhà cửa và toàn bộ vùng nhà xứ. Rồi chỉ trong chốc lát, nước đã dâng lên đến dây điện mắc trên cột. Trong đêm đó tôi nghe thấy những tiếng than khóc, những tiếng người cầu cứu, kêu la”
Đến sáng hôm sau, các trực thăng bay trên đường phố cứu vớt người trên nóc nhà, ngọn cây. Ngay lúc ấy cha biết ngay rằng nước lụt sẽ không mau chóng rút đi.
Ngài kể với báo Clarion Herald của Tổng Giáo Phận New Orleans rằng “ Tôi bò ra ngoài cửa sổ, vẫy tay cầu cứu trực thăng. Phi công thả sợi dây và có người xuống kéo tôi lên máy bay.
Cha Hayes không còn chọn lựa nào khác, đành để Mình Thánh Chúa lại và con chó yêu qúy của ngài trên tầng hai của nhà trường giáo xứ. Chiếc trực thăng đưa cha từ nhà thờ St Louise de Marillac đến trại lính Jackson là nơi vệ binh quốc gia ở New Orleans dùng làm bộ chỉ huy. Trên máy bay cha mới nhìn thấy mức độ nước lụt bao la khủng khiếp như thế nào.
Cha nói: “ Bạn có thể nhìn thấy sóng nước bao la từ khu vực quận St. Bernard đến tận vịnh Mexico”.
Tại trại lính Jackson, mỗi người di tản được cấp phát một chai nước, một gói lương thực. Những người còn đủ sức khoẻ, được khuyến khích dùng con đê dọc theo bờ sông Mississippi để đi vào thành phố. Và cha Hayes nhận thấy mình đủ sức khoẻ để đi bộ vào vùng “chiến tranh”
Cha Hayes kể “ Giống y như là cuộc nổi loạn, nào là người ta, lính cứu hỏa, thú vật hoang dã, tàu bè đánh cá, hôi của, xe cộ, chó mèo lang thang”
Những người lính vũ trang khuyên cha đến một nơi an toàn trước khi giờ giới nghiêm ban đêm đến. Cha vội đi tới một chủng viện thì gặp một nhóm tù nhân đang ca hát và được di tản khỏi nhà tù trung ương.
Cha Hayes kể tiếp: “Nước ngập đến cổ, và chỗ này đầy dầu nhớt. Tôi nhảy lên cánh cổng nhà của một người thuê chung cư B.W. Cooper. Chủ nhà là bà Kelly, đúng bà là vị thánh thật, bà cho tôi một chiếc ghế, khăn và quần áo khô để mặc.
Ông bà chủ nhà đó cho tôi đồ ăn nước uống và dành một căn phòng trên lầu ba cho tôi nghỉ qua đêm. Sáng hôm sau, nước lại dâng lên nữa sát mí cầu thang”
Mọi người nói phải di tản đến vận động trường Superdome. Còn cha Hayes nói “có 600 chuyến xe buýt đang chờ ở đó để di tản người tị nạn.”
Nước ngập tới cổ nhưng cha Hayes dùng thùng đựng đá đề làm phao, cùng với đoàn người di tản, rời khỏi căn chung cư. Ngài biết tại vận động trường Superdome không phải là nơi trú ngụ thoải mái gì. Ngài đã không chuẩn bị gì cho những chuyện kinh hoàng sẽ xẩy ra tại một nơi danh tiếng của thành phố New Orleans.
Cha kể rằng cha thực sự có được cảm giác của người nghèo đã trải qua ở New Orleans”: Nào nước tiểu, phân bón nhà cầu đổ trào ra đường đi trong vận động trường. Nào các máy bán hàng bị phá hoại, khói bay khắp nới, tiếng người chửi bới nhau, nóng nực, trẻ nít khóc la, có vụ hỏa họan giữa ban đêm, hai phụ nữ sinh nở, trực thăng bị dưới bắn lên.
Đến rạng sáng cha Hayes rời vận động trường vì không thấy 600 chiếc xe buýt đâu. Ngài lại lội đi về Vương Cung Thánh Đường. Ngài qùy gối trước cửa nhà thờ cầu nguyện xin Chúa cứu chữa New Orleans.
Tình cờ cha Hayes gặp cảnh sát trưởng của vùng St Bernard là ông Jack Stevens. Ông nhớ ngay ra cha Hayes mà cách đấy 20 năm cha la cha xứ thờ Đức Mẹ Chalmette thuộc giáo xứ Prompt Succor. Ông Stevens nhờ cha Hayes giúp một tay trong công tác mục vụ giúp những người đang còn mắc kẹt trên nóc nhà hay trên ngọn cây.
Cha Kể : Tôi đi với ông Stevens đến vùng có sông rạch để cứu người. Đi lên đi xuống một cái nhà kho mà trong người tôi chỉ có hai thứ: cỗ tràng hạt và cây thánh giá. Nhiều người tỏ ra rất biết ơn. Một người được cứu sau khi ngâm trong nước ba ngày, còn vợ ông và 2 đứa con trai đã bị chết đưối trong nhà
Liên tiếp 10 ngày sau đó, cha Hayes và nhóm người thiên nguyện đầy nhiệt huyết cung cấp mục vụ cho các nạn nhân trận bảo Katrina, kể cả cho nững người đi cứu giúp người khác.
Và đương nhiên, sau đó cha đã trở về nhà thờ St. Louise de Marillac để cửu vớt Mình Thánh Chúa, con chó yêu thương của Ngài và hồ sơ của Giáo xứ. Trong hai ngày Chúa Nhật sau đó, ngài đã đưa mình thánh Chúa cho các người lính cứu hỏa, các người thi hành công tác khẩn cấp quanh vùng St Bernard, từ vùng Creole Queen đến nhà máy lọc dầu Exxon.
Cha kết luận: “Tôi đã gặp nhiều người và họ đã cho tôi thấy thế nào thực sự là tình nhân đạo và thánh thiêng”.