Tháng 5 năm 2009, Hội Đồng Giám Mục Úc Châu có tổ chức một hội nghị quốc gia về truyền thông Công Giáo tại Khách Sạn Menzies, Sydney trong 3 ngày từ 4 đến 6. Mục đích của hội nghị này là đem lại cơ hội để học hỏi, chia sẻ tư duy và khích lệ mọi người có liên quan tới in ấn, truyền hình, truyền thanh, phim ảnh, trang mạng hay các phương tiện báo chí và truyền thông khác trong Giáo Hội Công Giáo. Mục tiêu trên được thể hiện qua các buổi trao đổi tích cực của hội nghị. Nhiều diễn giả nổi danh đã được mời nói truyện tại hội nghị, trong đó có Cha Richard Leonard, Dòng Tên, Giám Đốc Văn Phòng Phim Ảnh Và Phát Tuyến Công Giáo Úc. Bài nói truyện của cha có tựa đề: Hãy mở toang cánh cửa, đem Tin Mừng vào thế giới hiện thực, một tựa đề trích dẫn từ thư gửi tín hữu Côlôxê và những lời đã đi vào lịch sử của Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan XXIII khi nói về Vatican II: “Tôi muốn mở tung các cửa sổ của Giáo Hội để ta có thể nhìn thấy bên ngoài và người ngoài nhìn thấy chúng ta bên trong”.
Theo cha Leonard, chủ đề ấy tát thẳng vào mặt não trạng pháo đài mà một số giới Công Giáo vẫn còn bám lấy trong lúc này, kể cả giới truyền thông Công Giáo, những người xem ra muốn nghĩ hay ít nhất cho người ta cảm giác như thế rằng ta có quyền nằm ở nhà, chờ thế giới đến với ta, theo điều kiện của ta, bước cái bước của ta, nói cái nói của ta.
Thực ra, nếu ta coi trọng lệnh truyền cao cả của Chúa Giêsu trong Mátthêu 26, hãy đi khắp thế gian và rao giảng Tin Mừng, thì ta phải bắt đầu xem sét thế gian một cách nghiêm túc và đừng tức khắc sợ hãi nó hay nghi ngờ nó.
Theo thống kê Úc năm 2008, và nhiều cuộc thăm dò đáng tin khác, ta biết rằng người Úc trung bình hiện nay
* 37 tuổi;
* sống chung trước hôn nhân;
* lập gia đình năm 31 tuổi trong một hôn lễ dân sự;
* không hẳn sẽ ly dị;
* có 1.7 đứa con;
* nợ mua nhà: $304,000;
* tổng trị giá: $498,000;
* nợ thẻ tín dụng hàng tháng: $4,100;
* thua cờ bạc: $18 một tuần;
* nghĩa là $936 một năm;
* tặng bác ái $3.90 một tuần;
* nghĩa là $202.80 một năm (so với $649 tại Đan Mạch);
* sản phẩm nội địa bán chạy nhất: chiếc bếp mới;
* có một người trong gia đình kinh niên trầm cảm;
* đối với câu hỏi “Hiện nay thế nào?” (How are you?), thường trả lời: “Bận quá”, “bở hơi tai”, “vắt giò lên cổ”, “mệt nhoài”;
* thích xem phim tưởng tượng hay khoa học giả tưởng Mỹ vốn không lộ liễu khiêu dâm, nhưng đôi chút bạo động và ăn nói sống sượng;
* trên truyền hình, thích xem thể thao, hài kịch hòan cảnh (sitcoms) hay các chương trình mệnh danh là “đời thực” (reality) hay “lối sống” (lifestyle);
* sẵn sàng coi sản phẩm khiêu dâm nhẹ hay nặng trên DVD, trên mạng hay tập san;
* đọc The Australian Women’s Weekly (Úc Châu Phụ Nữ Tuần San); The Da Vinci Code và Harry Potter;
* sở hữu một Ipod, có 3 máy truyền hình và liên mạng trong nhà và đang dự tính sử dụng các chương trình truyền hình phải trả tiền;
* đi coi phim tại rạp mỗi tháng một lần;
* tin vào chính phủ và các công ty truyền thông để biết sự thật;
Về truyền thông, người Úc:
* coi truyền hình 3.13 giờ một ngày
* lớp người 70 tuổi ngồi trước máy truyền hình 9 năm trường
* lớp người từ 10 tới 18 tuổi vào liên mạng 2.5 giờ một ngày
* 61% các hộ gia đình úc có 2 máy truyền hình.
Nói chung, giai tầng kinh tế xã hội càng thấp, càng tiêu thụ các sản phẩm truyền thông. Người Úc trung bình tuổi từ 12 tới 25:
* xem truyền hình 1.9 giờ môt ngày;
* nghĩa là đến lúc 70 tuổi, xem truyền hình 7.2 năm;
* vào liên mạng 2.5 giờ một ngày;
* nghĩa là 7.2 năm tới lúc 70 tuổi;
* với lớp tuổi trên, 2007 là năm đầu tiên giờ vào liên mạng nhiều hơn giờ coi truyền hình.
Những chuyện ấy đều đáng lưu tâm vì ta không thể phúc âm hóa hữu hiệu một nền văn hóa mà ta không hiểu biết gì hay tệ hơn nữa, còn ghét bỏ. Theo cha Leonard, ta cần nhìn nhận rằng Giáo Hội vốn cảm thấy thoải mái khi truyền thông có nghĩa là tìm tòi nghiên cứu nghiêm chỉnh và tốn thì giờ. Nhưng đến cuối thế kỷ 20, truyền thông đã trở thành dân chủ, nhấn mạnh nhiều hơn đến giải trí và các dự án hậu hiện đại vốn thách thức các chủ trương cho là mình đại diện cho sự thật phổ quát. Nói đến các phương tiện truyền thông, trong 40 năm vừa qua, Giáo Hội vẫn ở thế rút lui khỏi nền văn hóa mà Giáo Hội vốn được sai đi để phúc âm hóa. Các dấu chỉ gần đây tuy có khích lệ nhưng không hẳn là thứ trao đổi khỏe khoắn mà một số trong chúng ta hằng mong ước.
Dù thích hay không, đại đa số người Úc hiện nay cảm thấy thoải mái với nền văn hóa ngập ứ truyền thông. Càng ngày họ càng tỏ ra vô tâm đối với việc thực hành tôn giáo và không muốn dành cho Giáo Hội bất cứ tư thế đặc biệt nào trong cuộc tranh luận công cộng. Các gương mù gương xấu về lạm dụng thể lý và tình dục đã phá họai trầm trọng sự trân qúy và thiện chí người ta vốn dành cho Giáo Hội trước đây. Trong một môi trường như thế, thật khó cho sứ điệp của ta được nghe thấy trong các diễn đàn công cộng và các nghĩa cử phục vụ thầm lặng, liên tục và đôi lúc anh hùng của ta được biết đến.
Ta có thể làm gì được trước hiện trạng ấy?
Cha Leonard nhân dịp này kể một câu truyện về điều ta không thể làm được. Hẳn mọi người còn nhớ: người duy nhất rời khỏi tầu Titanic trước khi nó vượt Đại Tây Dương là một tu sĩ Dòng Tên, tên Frank Browne. Năm 1912, Frank vừa học xong thần học ở Anh Quốc. Người chú của ông tên Robert Browne, lúc ấy là giám mục giầu có tại Cashel, cho ông vé hạng nhất để đáp chuyến đầu tiên của Titanic từ cảng Southampton đi Cherbourg và Queenstown thuộc Cork. Lúc đang ở trên tàu, một gia đình Mỹ làm quen với ông và tặng ông vé đi tiếp tới New York. Ông tới phòng Marconi nổi tiếng của con tàu và gửi một điện tín về cha giám tỉnh tại Dublin xin phép trước khi tiếp nhận vé. Khi Titanic tới Cảng Cork, một điện tín từ Bề Trên đã gửi sẵn ở đó cho Frank Browne, với nội dung: “Rời Khỏi Tàu – Cha Giám Tỉnh”. Ông là người duy nhất lên bờ ở Ái Nhĩ Lan và đã chụp được bức hình sau cùng của Titanic khi con tàu rời cảng hút vào Đại Tây Dương. Cha Browne mang theo mình bức điện tín trên suốt cuộc đời còn lại cho đến khi qua đời vào năm 1960. Ngài thích nói đùa rằng “Đó là lúc duy nhất Đức Vâng Lời Thánh Thiện đã cứu sống một đời người”.
Cha Leonard nhận định rằng: lấy việc rời bỏ con tàu yểu mệnh trên làm ẩn dụ, ta không nên coi như một ơn phúc nếu được rời bỏ con tầu văn hóa của chúng ta, bất chấp viễn tượng trước mắt có hiểm nguy bao nhiêu đi nữa. Là người của Phục Sinh, ta luôn có phao cấp cứu của hy vọng, trí thông minh đủ để đưa ra các quyết định sáng suốt và ơn biện biệt. Bước vào nền văn hóa truyền thông của Úc, ta nên từ bỏ lòng ngờ vực lâu đời của ta đối với nền truyền thông giải trí, từ bỏ niềm tin cho rằng ta không thể sử dụng hình thức bình dân để nói về những sự việc của Chúa vì nó đòi hỏi nhiều nghiêm túc, nhiều sắc thái tế vi. Trong phương cách sử dụng lề thói truyền tin của thời đại mình, tức các dụ ngôn, Chúa Giêsu hiểu rất rõ rằng người ta có thể học được các bài học quan trọng nhất từ các câu truyện, vì được cười, khóc, thách thức và an ủi trong các câu truyện ấy. Người cũng biết rõ nghệ thuật truyền đạt sứ điệp của mình một cách đơn giản. Xét theo một số khía cạnh, Giáo Hội tỏ ra quá nghiêm chỉnh đối với chính lợi ích của mình.
Một trong các yếu điểm là Giáo Hội vốn bị cám dỗ coi mối liên hệ của mình với truyền thông theo nghĩa giao tế (public relation). Cha Leonard cho rằng ta cần thận trọng đừng quá đầu tư vào hoạt động tuy cần thiết nhưng phụ thuộc này. Chúng ta không như các tổ chức khác trong đó việc cổ vũ tên tuổi, hoặc của cá nhân hoặc của một sản phẩm, đòi phải có một chiến dịch truyền thông mắc tiền và có hệ thống. Chúng ta không tìm cách bán sản phẩm, chúng ta đưa lại cho đồng bào mình một mối liên hệ, mối liên hệ yêu thương, giải thoát và cứu rỗi.
Để làm được điều đó, thiển nghĩ ta phải bỏ lại đàng sau cảm thức sai lạc coi truyền thanh, truyền hình và phim ảnh là điều tốt để ta trực tiếp phúc âm hóa. Chỉ khi nào truyền thông giúp người ta tham gia cộng đồng đức tin thì nó mới có ích cho việc phục vụ Phúc Âm. Ta không nên theo gương những nhà truyền giảng phúc âm trên truyền hình, những người đôi lúc biến Kitô Giáo thành phản trí thức, trắng đen về luân lý, làm giầu và tìm phép lạ. Những người như thế sợ họ không duy trì nổi cộng đoàn của họ trong một thế hệ.
Hiển nhiên, Giáo Hội từng là người quản thủ cả một nền văn hóa nghệ thuật cao độ. Ta không cần phải từ bỏ gia tài qúy giá ấy của quá khứ, nhưng cần hoàn hợp nó với nền văn hóa bình dân hiện đang đào tạo ra những con người được ta mong muốn nói với và gây ảnh hưởng mãi mãi. Điều này bao gồm việc ta phải biết thành thạo các cuộc thi đua thể thao cũng như giải trí công cộng, âm nhạc, truyền hình, các trang mạng, trò chơi video, nhắn tin (texting) và phim ảnh vốn lôi cuốn phần lớn các đồng bào của ta.
Dù không được bỏ qua vai trò chỉ trích xây dựng trong xã hội của mình, ta vẫn có thể hỗ trợ truyền thông trong nền văn hóa của ta, một nền truyền thông vẫn thường quan tâm tới những vấn đề tương tự như Giáo Hội. Nhiều chương trình của họ cũng nhằm cho thấy các nhân đức chính như công bình, trung tín, tiết độ, khôn ngoan hay các giá trị Kitô Giáo như lòng nhân từ và tinh thần hiếu khách. Một số chương trình hơi “đen” hơn một chút của họ thực ra cũng để trình bày hậu quả của bẩy mối tội đầu: kiêu ngạo, hà tiện, ghen ghét, hờn giận, mê dâm dục, mê ăn uống và làm biếng.
Như các vị giáo hoàng gần đây thường nhắc nhở, ngành truyền thông nào đề cập tới các vấn đề nêu trên đều đã mặc nhiên tuyên xưng Thiên Chúa vậy. Đối vơi mục tiêu này, thiết tưởng Giáo Hội Công Giáo, hay tất cả các Giáo Hội Kitô Giáo hợp nhau lại, nên trao các giải thưởng, như Giải Thưởng Nhân Văn (Humanitas Award) tại Mỹ chẳng hạn, để tưởng thưởng bất cứ ngành truyền thông bình dân nào biết cổ vũ các giá trị nhân bản. Quốc gia chúng ta ngày nay là một quốc gia thế tục. Kỹ nghệ truyền thông của ta luôn luôn phản ảnh tính thế tục ấy. Tưởng thưởng nó vì công trình tuyên xưng mặc nhiên như trên sẽ là một tham dự có tính xây dựng vào kỹ nghệ truyền thông của xứ sở. Trong khi phục hồi nền linh đạo truyền giáo có tính truyền thống nhất trong Giáo Hội của ta, ta có thể mở tung mọi cánh cửa của mình ra, học hỏi ngôn ngữ người ta đang nói tại các nơi công cộng, nơi ta đang phải cạnh tranh với các nhóm khác để chiếm được tâm trí và giá trị của những người ta được Chúa sai đến để phục vụ.
Không ít người Công Giáo nghĩ rằng ta chỉ cần cầu nguyện, mọi việc khác Chúa sẽ lo liệu. Nhưng đôi khi, giải pháp không đơn giản như thế. Các khó khăn của ta đôi khi không có những giải pháp thiêng liêng chớp nhoáng. Vả lại không hề có thứ ơn thánh “rẻ tiền”. Không phải chỉ có cầu nguyện, mà còn cần cố gắng, biện biệt và thông minh nữa. Đối với cha Leonard, một trong các phương cách giúp ta trở thành có tương quan đối với một thế hệ đầy ứ truyền thông phải là: ra khỏi khu vực êm ái (comfort zone) của mình và ý thức được thế giới ta đang bước vào, một thế giới rất khác với thế giới của ta về nhiều phương diện. Điều ấy không nhất thiết có nghĩa ta phải phong thánh, phong thần cho nền văn hóa, mà chỉ cần nghiêm túc đối với nó. Mở cửa không hẳn là việc dễ dàng, nhưng đó là con đường duy nhất đối với ngành truyền thông Công Giáo trong thế kỷ 21.
Theo cha Leonard, chủ đề ấy tát thẳng vào mặt não trạng pháo đài mà một số giới Công Giáo vẫn còn bám lấy trong lúc này, kể cả giới truyền thông Công Giáo, những người xem ra muốn nghĩ hay ít nhất cho người ta cảm giác như thế rằng ta có quyền nằm ở nhà, chờ thế giới đến với ta, theo điều kiện của ta, bước cái bước của ta, nói cái nói của ta.
Thực ra, nếu ta coi trọng lệnh truyền cao cả của Chúa Giêsu trong Mátthêu 26, hãy đi khắp thế gian và rao giảng Tin Mừng, thì ta phải bắt đầu xem sét thế gian một cách nghiêm túc và đừng tức khắc sợ hãi nó hay nghi ngờ nó.
Theo thống kê Úc năm 2008, và nhiều cuộc thăm dò đáng tin khác, ta biết rằng người Úc trung bình hiện nay
* 37 tuổi;
* sống chung trước hôn nhân;
* lập gia đình năm 31 tuổi trong một hôn lễ dân sự;
* không hẳn sẽ ly dị;
* có 1.7 đứa con;
* nợ mua nhà: $304,000;
* tổng trị giá: $498,000;
* nợ thẻ tín dụng hàng tháng: $4,100;
* thua cờ bạc: $18 một tuần;
* nghĩa là $936 một năm;
* tặng bác ái $3.90 một tuần;
* nghĩa là $202.80 một năm (so với $649 tại Đan Mạch);
* sản phẩm nội địa bán chạy nhất: chiếc bếp mới;
* có một người trong gia đình kinh niên trầm cảm;
* đối với câu hỏi “Hiện nay thế nào?” (How are you?), thường trả lời: “Bận quá”, “bở hơi tai”, “vắt giò lên cổ”, “mệt nhoài”;
* thích xem phim tưởng tượng hay khoa học giả tưởng Mỹ vốn không lộ liễu khiêu dâm, nhưng đôi chút bạo động và ăn nói sống sượng;
* trên truyền hình, thích xem thể thao, hài kịch hòan cảnh (sitcoms) hay các chương trình mệnh danh là “đời thực” (reality) hay “lối sống” (lifestyle);
* sẵn sàng coi sản phẩm khiêu dâm nhẹ hay nặng trên DVD, trên mạng hay tập san;
* đọc The Australian Women’s Weekly (Úc Châu Phụ Nữ Tuần San); The Da Vinci Code và Harry Potter;
* sở hữu một Ipod, có 3 máy truyền hình và liên mạng trong nhà và đang dự tính sử dụng các chương trình truyền hình phải trả tiền;
* đi coi phim tại rạp mỗi tháng một lần;
* tin vào chính phủ và các công ty truyền thông để biết sự thật;
Về truyền thông, người Úc:
* coi truyền hình 3.13 giờ một ngày
* lớp người 70 tuổi ngồi trước máy truyền hình 9 năm trường
* lớp người từ 10 tới 18 tuổi vào liên mạng 2.5 giờ một ngày
* 61% các hộ gia đình úc có 2 máy truyền hình.
Nói chung, giai tầng kinh tế xã hội càng thấp, càng tiêu thụ các sản phẩm truyền thông. Người Úc trung bình tuổi từ 12 tới 25:
* xem truyền hình 1.9 giờ môt ngày;
* nghĩa là đến lúc 70 tuổi, xem truyền hình 7.2 năm;
* vào liên mạng 2.5 giờ một ngày;
* nghĩa là 7.2 năm tới lúc 70 tuổi;
* với lớp tuổi trên, 2007 là năm đầu tiên giờ vào liên mạng nhiều hơn giờ coi truyền hình.
Những chuyện ấy đều đáng lưu tâm vì ta không thể phúc âm hóa hữu hiệu một nền văn hóa mà ta không hiểu biết gì hay tệ hơn nữa, còn ghét bỏ. Theo cha Leonard, ta cần nhìn nhận rằng Giáo Hội vốn cảm thấy thoải mái khi truyền thông có nghĩa là tìm tòi nghiên cứu nghiêm chỉnh và tốn thì giờ. Nhưng đến cuối thế kỷ 20, truyền thông đã trở thành dân chủ, nhấn mạnh nhiều hơn đến giải trí và các dự án hậu hiện đại vốn thách thức các chủ trương cho là mình đại diện cho sự thật phổ quát. Nói đến các phương tiện truyền thông, trong 40 năm vừa qua, Giáo Hội vẫn ở thế rút lui khỏi nền văn hóa mà Giáo Hội vốn được sai đi để phúc âm hóa. Các dấu chỉ gần đây tuy có khích lệ nhưng không hẳn là thứ trao đổi khỏe khoắn mà một số trong chúng ta hằng mong ước.
Dù thích hay không, đại đa số người Úc hiện nay cảm thấy thoải mái với nền văn hóa ngập ứ truyền thông. Càng ngày họ càng tỏ ra vô tâm đối với việc thực hành tôn giáo và không muốn dành cho Giáo Hội bất cứ tư thế đặc biệt nào trong cuộc tranh luận công cộng. Các gương mù gương xấu về lạm dụng thể lý và tình dục đã phá họai trầm trọng sự trân qúy và thiện chí người ta vốn dành cho Giáo Hội trước đây. Trong một môi trường như thế, thật khó cho sứ điệp của ta được nghe thấy trong các diễn đàn công cộng và các nghĩa cử phục vụ thầm lặng, liên tục và đôi lúc anh hùng của ta được biết đến.
Ta có thể làm gì được trước hiện trạng ấy?
Cha Leonard nhân dịp này kể một câu truyện về điều ta không thể làm được. Hẳn mọi người còn nhớ: người duy nhất rời khỏi tầu Titanic trước khi nó vượt Đại Tây Dương là một tu sĩ Dòng Tên, tên Frank Browne. Năm 1912, Frank vừa học xong thần học ở Anh Quốc. Người chú của ông tên Robert Browne, lúc ấy là giám mục giầu có tại Cashel, cho ông vé hạng nhất để đáp chuyến đầu tiên của Titanic từ cảng Southampton đi Cherbourg và Queenstown thuộc Cork. Lúc đang ở trên tàu, một gia đình Mỹ làm quen với ông và tặng ông vé đi tiếp tới New York. Ông tới phòng Marconi nổi tiếng của con tàu và gửi một điện tín về cha giám tỉnh tại Dublin xin phép trước khi tiếp nhận vé. Khi Titanic tới Cảng Cork, một điện tín từ Bề Trên đã gửi sẵn ở đó cho Frank Browne, với nội dung: “Rời Khỏi Tàu – Cha Giám Tỉnh”. Ông là người duy nhất lên bờ ở Ái Nhĩ Lan và đã chụp được bức hình sau cùng của Titanic khi con tàu rời cảng hút vào Đại Tây Dương. Cha Browne mang theo mình bức điện tín trên suốt cuộc đời còn lại cho đến khi qua đời vào năm 1960. Ngài thích nói đùa rằng “Đó là lúc duy nhất Đức Vâng Lời Thánh Thiện đã cứu sống một đời người”.
Cha Leonard nhận định rằng: lấy việc rời bỏ con tàu yểu mệnh trên làm ẩn dụ, ta không nên coi như một ơn phúc nếu được rời bỏ con tầu văn hóa của chúng ta, bất chấp viễn tượng trước mắt có hiểm nguy bao nhiêu đi nữa. Là người của Phục Sinh, ta luôn có phao cấp cứu của hy vọng, trí thông minh đủ để đưa ra các quyết định sáng suốt và ơn biện biệt. Bước vào nền văn hóa truyền thông của Úc, ta nên từ bỏ lòng ngờ vực lâu đời của ta đối với nền truyền thông giải trí, từ bỏ niềm tin cho rằng ta không thể sử dụng hình thức bình dân để nói về những sự việc của Chúa vì nó đòi hỏi nhiều nghiêm túc, nhiều sắc thái tế vi. Trong phương cách sử dụng lề thói truyền tin của thời đại mình, tức các dụ ngôn, Chúa Giêsu hiểu rất rõ rằng người ta có thể học được các bài học quan trọng nhất từ các câu truyện, vì được cười, khóc, thách thức và an ủi trong các câu truyện ấy. Người cũng biết rõ nghệ thuật truyền đạt sứ điệp của mình một cách đơn giản. Xét theo một số khía cạnh, Giáo Hội tỏ ra quá nghiêm chỉnh đối với chính lợi ích của mình.
Một trong các yếu điểm là Giáo Hội vốn bị cám dỗ coi mối liên hệ của mình với truyền thông theo nghĩa giao tế (public relation). Cha Leonard cho rằng ta cần thận trọng đừng quá đầu tư vào hoạt động tuy cần thiết nhưng phụ thuộc này. Chúng ta không như các tổ chức khác trong đó việc cổ vũ tên tuổi, hoặc của cá nhân hoặc của một sản phẩm, đòi phải có một chiến dịch truyền thông mắc tiền và có hệ thống. Chúng ta không tìm cách bán sản phẩm, chúng ta đưa lại cho đồng bào mình một mối liên hệ, mối liên hệ yêu thương, giải thoát và cứu rỗi.
Để làm được điều đó, thiển nghĩ ta phải bỏ lại đàng sau cảm thức sai lạc coi truyền thanh, truyền hình và phim ảnh là điều tốt để ta trực tiếp phúc âm hóa. Chỉ khi nào truyền thông giúp người ta tham gia cộng đồng đức tin thì nó mới có ích cho việc phục vụ Phúc Âm. Ta không nên theo gương những nhà truyền giảng phúc âm trên truyền hình, những người đôi lúc biến Kitô Giáo thành phản trí thức, trắng đen về luân lý, làm giầu và tìm phép lạ. Những người như thế sợ họ không duy trì nổi cộng đoàn của họ trong một thế hệ.
Hiển nhiên, Giáo Hội từng là người quản thủ cả một nền văn hóa nghệ thuật cao độ. Ta không cần phải từ bỏ gia tài qúy giá ấy của quá khứ, nhưng cần hoàn hợp nó với nền văn hóa bình dân hiện đang đào tạo ra những con người được ta mong muốn nói với và gây ảnh hưởng mãi mãi. Điều này bao gồm việc ta phải biết thành thạo các cuộc thi đua thể thao cũng như giải trí công cộng, âm nhạc, truyền hình, các trang mạng, trò chơi video, nhắn tin (texting) và phim ảnh vốn lôi cuốn phần lớn các đồng bào của ta.
Dù không được bỏ qua vai trò chỉ trích xây dựng trong xã hội của mình, ta vẫn có thể hỗ trợ truyền thông trong nền văn hóa của ta, một nền truyền thông vẫn thường quan tâm tới những vấn đề tương tự như Giáo Hội. Nhiều chương trình của họ cũng nhằm cho thấy các nhân đức chính như công bình, trung tín, tiết độ, khôn ngoan hay các giá trị Kitô Giáo như lòng nhân từ và tinh thần hiếu khách. Một số chương trình hơi “đen” hơn một chút của họ thực ra cũng để trình bày hậu quả của bẩy mối tội đầu: kiêu ngạo, hà tiện, ghen ghét, hờn giận, mê dâm dục, mê ăn uống và làm biếng.
Như các vị giáo hoàng gần đây thường nhắc nhở, ngành truyền thông nào đề cập tới các vấn đề nêu trên đều đã mặc nhiên tuyên xưng Thiên Chúa vậy. Đối vơi mục tiêu này, thiết tưởng Giáo Hội Công Giáo, hay tất cả các Giáo Hội Kitô Giáo hợp nhau lại, nên trao các giải thưởng, như Giải Thưởng Nhân Văn (Humanitas Award) tại Mỹ chẳng hạn, để tưởng thưởng bất cứ ngành truyền thông bình dân nào biết cổ vũ các giá trị nhân bản. Quốc gia chúng ta ngày nay là một quốc gia thế tục. Kỹ nghệ truyền thông của ta luôn luôn phản ảnh tính thế tục ấy. Tưởng thưởng nó vì công trình tuyên xưng mặc nhiên như trên sẽ là một tham dự có tính xây dựng vào kỹ nghệ truyền thông của xứ sở. Trong khi phục hồi nền linh đạo truyền giáo có tính truyền thống nhất trong Giáo Hội của ta, ta có thể mở tung mọi cánh cửa của mình ra, học hỏi ngôn ngữ người ta đang nói tại các nơi công cộng, nơi ta đang phải cạnh tranh với các nhóm khác để chiếm được tâm trí và giá trị của những người ta được Chúa sai đến để phục vụ.
Không ít người Công Giáo nghĩ rằng ta chỉ cần cầu nguyện, mọi việc khác Chúa sẽ lo liệu. Nhưng đôi khi, giải pháp không đơn giản như thế. Các khó khăn của ta đôi khi không có những giải pháp thiêng liêng chớp nhoáng. Vả lại không hề có thứ ơn thánh “rẻ tiền”. Không phải chỉ có cầu nguyện, mà còn cần cố gắng, biện biệt và thông minh nữa. Đối với cha Leonard, một trong các phương cách giúp ta trở thành có tương quan đối với một thế hệ đầy ứ truyền thông phải là: ra khỏi khu vực êm ái (comfort zone) của mình và ý thức được thế giới ta đang bước vào, một thế giới rất khác với thế giới của ta về nhiều phương diện. Điều ấy không nhất thiết có nghĩa ta phải phong thánh, phong thần cho nền văn hóa, mà chỉ cần nghiêm túc đối với nó. Mở cửa không hẳn là việc dễ dàng, nhưng đó là con đường duy nhất đối với ngành truyền thông Công Giáo trong thế kỷ 21.