Chiều Thứ Bảy, 4 tháng 12, Đức Thánh Cha đã có một chuyến thăm xã giao đến Đức Tổng Giám Mục Hieronymos II, của Athens và Toàn Hy Lạp, tại Tòa Tổng Giám mục Chính thống giáo. Tiếp theo đó là cuộc gặp gỡ của phái đoàn Tòa Thánh và hàng giáo phẩm Chính Thống Giáo Hy Lạp tại “Phòng ngai vàng”.

Cuối ngày hôm đó, Đức Thánh Cha đã gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ, những người thánh hiến, chủng sinh và giáo lý viên của cộng đồng Giáo hội địa phương tại Nhà thờ Thánh Dionysius ở Athens.

Trong diễn từ tại đây, Đức Thánh Cha nói:


Các chư huynh đệ Giám mục thân mến,

Quý Linh mục, Tu sĩ và các Chủng sinh thân mến,

Anh chị em thân mến, kalispera sas! (Chào buổi tối!)


Tôi cảm ơn từ thâm tâm mình trước sự chào đón nồng nhiệt của anh chị em và những lời chào thân ái mà Đức Tổng Giám Mục Rossolatos đã gửi đến tôi. Xin cám ơn Chị Maria về chứng từ của chị: điều quan trọng là các tu sĩ nam nữ phải thi hành công việc phục vụ của mình trong tinh thần này, với một tình yêu nồng nhiệt là trở thành một ân sủng cho các cộng đồng mà họ được sai đến. Cảm ơn! Cảm ơn anh, Rokos, vì lời chứng đức tin tốt đẹp mà anh đã sống trong gia đình, trong cuộc sống hàng ngày, cùng với những đứa trẻ, giống như rất nhiều người trẻ, đến một lúc nào đó bắt đầu thắc mắc, tự hỏi và trở nên hơi chỉ trích về một số điều nhất định. Nhưng điều đó cũng không phải là xấu, vì nó giúp chúng ta với tư cách là một Giáo Hội biết suy tư và thay đổi.

Tôi rất vui được gặp anh chị em ở một vùng đất là ân sủng, là tài sản của nhân loại, nơi nền tảng của phương Tây đã được hình thành. Tất cả chúng ta đều là con cái của đất nước anh chị em, và mắc nợ đất nước này: nếu không có thơ ca, văn học, triết học và nghệ thuật phát triển ở đây, chúng ta sẽ không thể quen thuộc với nhiều khía cạnh của hiện sinh con người, hoặc không thể trả lời nhiều câu hỏi sâu sắc liên quan đến cuộc sống, tình yêu, đau khổ và cả cái chết.

Vào buổi bình minh của Kitô Giáo, di sản phong phú này đã làm phát sinh sự hội nhập văn hóa của đức tin, được thực hiện, như thể trong một “phòng thí nghiệm”, nhờ vào sự khôn ngoan của nhiều Giáo phụ trong đức tin của chúng ta, những người qua sự thánh thiện trong cuộc sống và các tác phẩm của các ngài vẫn là một ngọn hải đăng ánh sáng cho các tín hữu ở mọi thời đại. Nhưng nếu tự hỏi ai là người đã khởi đầu cuộc gặp gỡ này giữa Kitô Giáo sơ khai và văn hóa Hy Lạp, chúng ta phải nghĩ ngay đến Tông đồ Phaolô. Thánh nhân đã bắt đầu công việc tổng hợp hai thế giới đó. Ngài đã làm điều đó tại chính nơi này, như chúng ta đọc trong sách Tông Đồ Công Vụ. Ngài đến Athens, bắt đầu rao giảng tại các quảng trường thành phố và được một số triết gia đưa đến Arêôpagô (xem Cv 17: 16-34), nơi hội họp của các trưởng lão và những người uyên bác có nhiệm vụ đưa ra các phán đoán về những vấn đề được công chúng quan tâm. Chúng ta hãy dừng lại và suy ngẫm về tình tiết này. Chúng ta có thể được hướng dẫn trong cuộc hành trình của mình với tư cách là Giáo hội bằng hai thái độ được Tông đồ Phaolô thể hiện, có thể rất hữu ích cho những nỗ lực hiện đại của chúng ta nhằm phổ biến đức tin.

Thái độ đầu tiên là lòng tín thác tự tin. Khi Phaolô giảng, một số triết gia bắt đầu tự hỏi “lang băm” này đang muốn nói gì (câu 18). Họ gọi ngài là lang băm: một kẻ bịa chuyện, lợi dụng lòng tin của người nghe. Vì vậy, họ đã đưa ngài đến Arêôpagô. Chúng ta không nên tưởng tượng rằng họ chỉ đơn giản là cho vị Tông đồ của chúng ta một diễn đàn. Ngược lại, họ đưa ngài đến đó để tra hỏi: “Chúng tôi có thể biết ông đang trình bày giáo lý mới này là gì không? Vì ông mang một số điều kỳ lạ đến tai chúng tôi; Do đó, chúng tôi muốn biết những điều này có ý nghĩa gì”(câu 19-20). Nói một cách dễ hiểu, Thánh Phaolô đã bị đưa vào những thử thách.

Phần sứ mệnh này của Thánh Phaolô tại Hy Lạp có thể dạy cho chúng ta một bài học quan trọng ngày nay. Vị Tông Đồ đã bị áp lực lớn. Trước đó không lâu, tại Thêsalônica, ngài đã bị ngăn cản không cho rao giảng; do tình trạng hỗn loạn khuấy động bởi các đối thủ, ngài phải bỏ trốn khỏi thành phố vào ban đêm. Giờ đây, khi đến Athens, ngài đã bị xem là một lang băm và bị điệu đến Arêôpagô như một vị khách không mời mà đến. Đây không phải là khoảnh khắc chiến thắng đối với Thánh Phaolô. Ngài đang thực hiện sứ vụ của mình trong một hoàn cảnh khó khăn. Có lẽ, nhiều khi trên đường đi, chúng ta cũng cảm thấy mệt mỏi và thậm chí thất vọng vì là một cộng đồng nhỏ bé, một Giáo hội với ít tài nguyên hoạt động trong một môi trường không phải lúc nào cũng thuận lợi. Hãy nghĩ về Thánh Phaolô ở Athens. Ngài đơn độc, thuộc nhóm thiểu số, không được chào đón và có rất ít cơ hội thành công. Nhưng ngài không cho phép mình khuất phục trước sự nản lòng. Ngài đã không từ bỏ sứ vụ của mình. Ngài cũng không chịu thua trước cám dỗ đưa ra những lời phàn nàn. Điều này rất quan trọng: hãy cảnh giác về thói phàn nàn. Thái độ của một tông đồ chân chính phải là tự tin tiến về phía trước, thích sự không chắc chắn của những tình huống bất ngờ hơn là sức mạnh của thói quen và sự lặp đi lặp lại. Thánh Phaolô đã có dũng khí đó. Nó đến từ đâu? Thưa: Từ sự tin tưởng vững chắc vào Chúa. Lòng can đảm của thánh nhân là lòng can đảm phát sinh từ sự tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thích hoàn thành những điều vĩ đại thông qua sự thấp hèn của chúng ta.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy có cùng niềm tin tưởng vững vàng ấy, bởi vì điều này: là một Giáo hội nhỏ bé, khiến chúng ta trở thành dấu chỉ hùng hồn của Tin Mừng, về Thiên Chúa mà Chúa Giêsu rao giảng, Đấng đã chọn những người nghèo và những kẻ hèn mọn, Đấng thay đổi lịch sử bằng những hành động đơn sơ của những người tầm thường. Là Giáo hội, chúng ta không được kêu gọi để có tinh thần chinh phục và chiến thắng, những con số ấn tượng hay sự vĩ đại của thế gian. Tất cả điều này là nguy hiểm. Nó có thể cám dỗ chúng ta đến não trạng vênh vang. Chúng ta được yêu cầu lấy cảm hứng từ hạt cải, loại hạt có vẻ không đáng kể, phát triển chậm và lặng lẽ. “Nó là hạt nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống” - Chúa Giêsu nói với chúng ta - “nhưng khi đã lớn nó là hạt lớn nhất trong các bụi cây và trở thành cây to” (Mt 13,32). Chúng ta được yêu cầu trở thành men làm dậy bột một cách kiên nhẫn và âm thầm, ẩn mình trong bột thế gian, nhờ hoạt động không ngừng của Chúa Thánh Thần (x. Mt 13,33). Bí mật của Nước Thiên Chúa nằm trong những điều nhỏ bé, thường lặng lẽ và không ai nhìn thấy. Tông đồ Phaolô, tên ngài có nghĩa là “bé nhỏ”, đã sống trong sự tin cậy vững chắc, vì ngài đã đón nhận những lời Phúc Âm đó vào lòng và biến chúng thành bài học cho các tín hữu ở Côrinhtô: “Sự yếu đuối của Thiên Chúa mạnh hơn loài người”; “Thiên Chúa đã chọn những gì yếu đuối trên thế gian để làm xấu hổ những kẻ hùng mạnh” (1Cr 1:25, 27).

Vì vậy, anh chị em thân mến, tôi xin nói với anh chị em điều này: hãy coi sự nhỏ bé của mình là một may mắn và sẵn sàng chấp nhận nó. Nó buộc anh chị em phải tin cậy vào Chúa và chỉ một mình Chúa. Đừng quên rằng Giáo hội trên khắp thế giới là một thiểu số, nhưng là một thiểu số không có nghĩa là tầm thường, mà là tiến gần hơn đến con đường mà Chúa yêu thích, đó là con đường của sự bé nhỏ: trút bỏ chính mình, khiêm nhường, hiền lành, con đường tự hạ mình của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu đã xuống thế để ẩn mình trong sự yếu đuối của con người chúng ta và trong những vết thương xác thịt chúng ta. Ngài đã cứu chúng ta bằng cách phục vụ chúng ta. Như Thánh Phaolô đã nói với chúng ta, “Ngài đã trút bỏ chính mình, mang hình dáng của một người đầy tớ” (Philíp 2: 7). Quá thường là chúng ta bị ám ảnh bởi những hình thức và hình ảnh bên ngoài, nhưng “Nước Thiên Chúa không đến với những dấu chỉ có thể quan sát được” (Lc 17:20). Nước Thiên Chúa đến một cách lặng lẽ, chậm rãi như mưa rơi trên mặt đất. Chúng ta hãy giúp nhau củng cố lòng tin cậy nơi công việc của Thiên Chúa, và đừng đánh mất lòng nhiệt thành phục vụ. Hãy can đảm, kiên trì trên con đường khiêm nhường và nhỏ bé này!

Bây giờ tôi muốn làm nổi bật một thái độ thứ hai được Thánh Phaolô thể hiện trước Arêôpagô, và đó là sự chấp nhận, một tính cách nội tâm cần thiết cho việc truyền giáo. Thái độ chấp nhận không cố gắng chiếm không gian và cuộc sống của người khác, nhưng là để gieo tin tốt vào đất cuộc sống của họ; đó là học cách nhận biết và đánh giá cao những hạt giống mà Thiên Chúa đã gieo vào lòng họ trước khi chúng ta bắt tay vào việc. Chúng ta hãy nhớ rằng Chúa luôn đi trước chúng ta, Chúa luôn gieo trước chúng ta. Truyền giáo không phải là đổ đầy một thùng rỗng; nhưng tối hậu là đưa ra ánh sáng những gì Thiên Chúa đã bắt đầu hoàn thành. Và đây là phương pháp sư phạm đáng chú ý mà vị Tông đồ đã áp dụng với người Athen. Ngài đã không nói với họ: “Các ông đã sai hết trơn hết trọi”, hoặc “Bây giờ tôi sẽ dạy các ông sự thật”. Thay vào đó, ngài bắt đầu bằng việc chấp nhận tinh thần tôn giáo của họ: “Thưa quý vị người Athen, tôi thấy rằng, về mọi mặt, quý vị là người sùng đạo hơn ai hết. Thật vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của quý vị, tôi đã thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: ‘Kính thần vô danh’” (Cv 17: 22-23). Thánh nhân đã rút ra điều này từ di sản phong phú của người Athen. Vị Tông đồ tôn trọng những thính giả của mình và hoan nghênh lòng sùng đạo của họ. Mặc dù các đường phố ở Athens đầy rẫy những thần tượng, là điều đã khiến ngài “vô cùng đau khổ” (câu 16), Phaolô thừa nhận lòng khao khát đối với Thiên Chúa tiềm ẩn trong trái tim của những người đó, và muốn nhẹ nhàng chia sẻ với họ món quà tuyệt vời là đức tin. Ngài đã không áp đặt; nhưng đã đề nghị. “Phong cách” của ngài không bao giờ dựa trên việc chiêu dụ tín đồ, nhưng dựa trên sự hiền lành của Chúa Giêsu. Điều này có thể thực hiện được vì Phaolô có cái nhìn thiêng liêng về thực tại. Ngài tin rằng Chúa Thánh Thần hoạt động trong trái tim con người, vượt trên nhãn giới tôn giáo. Chúng ta đã nghe thấy điều này trong chứng tá do Rokos đưa ra. Tại một thời điểm nào đó, trẻ em rời xa việc thực hành tôn giáo, nhưng Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục làm công việc của mình, và do đó chúng vẫn tin vào sự hiệp nhất, vào tình huynh đệ với những người khác. Chúa Thánh Thần luôn làm nhiều hơn những gì chúng ta có thể nhìn thấy từ bên ngoài. Chúng ta đừng quên điều này. Trong mọi thời đại, thái độ của người tông đồ bắt đầu bằng việc chấp nhận người khác. Vì “ân sủng giả định nền văn hóa, và ân sủng của Thiên Chúa được thể hiện trong nền văn hóa của những người nhận được nó” (Evangelii Gaudium, 115). Không có ân sủng trừu tượng nào bay trên đầu chúng ta; ân sủng luôn luôn nhập thể trong một nền văn hóa.

Khi suy ngẫm về chuyến thăm của Thánh Phaolô đến Arêôpagô, Đức Bênêđíctô XVI lưu ý rằng chúng ta phải nhớ đến những người theo thuyết bất khả tri và những người vô thần, nhưng hãy lưu ý rằng, khi chúng ta nói về một cuộc truyền giáo mới, đừng làm họ nản. “Họ không muốn bị coi là mục tiêu của sứ vụ truyền giáo, cũng không muốn từ bỏ quyền tự do tư tưởng và ý chí của mình” (Diễn văn trước Giáo triều Rôma, ngày 21 tháng 12 năm 2009). Ngày nay, chúng ta cũng được yêu cầu trau dồi một thái độ chào đón, một phong cách hiếu khách, một trái tim mong muốn tạo ra sự hiệp thông giữa những khác biệt về con người, văn hóa hoặc tôn giáo. Thách đố là chúng ta phải phát triển lòng nhiệt thành của mọi người, điều này có thể dẫn chúng ta - người Công Giáo, Chính thống giáo, anh chị em theo các hệ phái khác, và cả những anh chị em bất khả tri của chúng ta, tất cả mọi người – đến chỗ lắng nghe nhau, ước mơ và làm việc cùng nhau, để nuôi dưỡng “mầu nhiệm” của tình huynh đệ (xem Evangelii Gaudium, 87). Những nỗi đau trong quá khứ vẫn còn trên con đường hướng tới một cuộc đối thoại đáng hoan nghênh như vậy, nhưng chúng ta hãy can đảm đón nhận thử thách hôm nay!

Anh chị em thân mến, tại đây trên mảnh đất Hy Lạp này, Thánh Phaolô đã thể hiện sự tin cậy thanh thản của mình vào Thiên Chúa và điều này khiến ngài cởi mở và chấp nhận đối với những người Arêôpagô đang nghi ngờ ngài. Với tinh thần này, Phaolô đã công bố Thiên Chúa mà những người nghe ngài chưa hề biết đến. Do đó, ngài đã có thể trình bày khuôn mặt của một Thiên Chúa, Đấng trong Chúa Giêsu Kitô đã gieo vào lòng thế giới hạt giống của sự phục sinh, quyền hy vọng phổ quát, là một nhân quyền - quyền được hy vọng. Khi Thánh Phaolô công bố tin vui này, hầu hết họ đều cười nhạo ngài và đi theo ý riêng của họ. Tuy nhiên, “một số gia nhập với ngài và trở thành tín đồ: trong số này có Dionysius, một thành viên của Arêôpagô, một phụ nữ tên là Damaris và những người khác” (Công vụ 17:34). Đa số bỏ đi; một thiểu số còn lại gia nhập với Thánh Phaolô, bao gồm cả Dionysius, người mà Nhà thờ này được đặt tên. Một phần nhỏ còn sót lại, nhưng đó là cách Thiên Chúa dệt nên những sợi chỉ của lịch sử, từ những ngày đó cho đến ngày của chúng ta. Mong muốn nhiệt thành của tôi là anh chị em tiếp tục công việc trong “phòng thí nghiệm” đức tin lịch sử của anh chị em, và làm điều đó với sự giúp đỡ của hai thành phần này, là sự tin tưởng và chấp nhận một cách tự tin, để cảm nghiệm Phúc âm như một kinh nghiệm của niềm vui, cũng như một kinh nghiệm của tình huynh đệ. Tôi gần gũi với anh chị em trong tình cảm và lời cầu nguyện. Và tôi xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi. [Bằng tiếng Hy Lạp] Xin Chúa phù hộ cho anh chị em!
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana