Giáo xứ Gia An 55 năm thành lập (1958-2013)
Cuối năm 1957, một ít giáo dân tân tòng từ giáo phận Quy Nhơn gốc Quảng Ngãi (Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ) được đưa đến khu dinh điền Duy Cần, thuộc xã Gia An, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Tuy và được chia làm 4 ấp: Cần, Kiệm, Liêm, Chính có 28 gia đình Công Giáo thuộc ấp Chính. Đầu năm 1958 có thêm 62 gia đình giáo dân gốc Bắc Ninh từ các xứ đạo vùng Tân Thành, Xóm Mới, Gò Vấp, và Hố Nai đến lập nghiệp. Có thể nói Giáo xứ Gia An ra đời cùng với sự hình thành khu dinh điền mang tên Duy Cần, khu dinh điền đầu tiên trong vùng Tánh Linh - Hoài Đức.
Theo niên giám năm 1964 của Địa phận Nha Trang, giáo xứ Gia An (trước năm 1975, có tên là Duy Cần) được thành lập năm 1958, điạ chỉ: Thôn 3 xã Gia An - huyện Tánh Linh, thuộc hạt Phan Thiết - tỉnh Bình Thuận, , do linh mục Giuse – Maria Phạm Trọng Kim chính xứ tiên khởi, với ngôi nhà thờ lợp tranh vách lá đơn sơ nhỏ bé. Nhờ Ơn Chúa giáo xứ từng bước phát triển, dù gặp muôn vàn khó khăn trở ngại. Số giáo dân (1964) Duy Cần là 1162 với 235 gia đình. Từ khi thành lập cho tới năm nay, giáo xứ luôn luôn có các linh mục phục vụ, cụ thể:
Cha Giuse – Maria Phạm Trọng Kim (1957 – 1958), thời điểm này giáo xứ hầu như chưa có gì, chỉ có ngôi nhà thờ nhỏ lợp tranh.
Cha G.B Trần Xuân Long (1958 – 1964), lúc này cha xứ cho làm lại nhà thờ lợp tole vách ván, nhà xứ tương đối khang trang với 5 phòng học. Đây là thời gian phong trào tòng giáo rất mạnh mẽ, có nhiều lương dân gia nhập đạo, các đoàn thể được xây dựng và phát triển rất tốt. Giáo xứ chọn Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời (15/8) làm bổn mạng. Sau biến cố 1963 một số gia đình trở lại Tân Thành, Gò Vấp, các gia đình tân tòng không tham gia các công việc chung của giáo xứ, lúc này các phong trào đi xuống rỏ rệt, số giáo dân giảm dần…
Cha Phaolô Nguyễn Lộc Huệ (1964 – 1965), vì thời cuộc chiến tranh loạn lạc nên cha chỉ lưu lại thời gian rất ngắn.
Cha Antôn Mai Khắc Cảnh (1965 – 1966), cha về nhận xứ Duy Cần. Vào ngày thứ năm Tuần Thánh (1966), kỷ niệm thành lập Bí tích Thánh Thể và chức linh mục, cha đi Lạc Tánh thăm cha P.X Hoàng Kim Điền, trên đường về, cha bị chính quyền cách mạng lâm thời mời đi học tập cải tạo. Do ốm đau bệnh tật cộng với rừng thiêng nước độc, cha đã qua đời trong núi rừng Tánh Linh. (Hài cốt của ngài được di dời về tại giáo xứ Gia An ngày 21. 6. 1996). Thời gian này, giáo xứ thiếu vắng linh mục cai quản. Được sự quan phòng của Chúa, cha Lê Văn Sinh quản xứ Sùng Nhơn đã về dâng Thánh lễ các ngày Chúa Nhật.
Cha Giuse Nguyễn Thanh Vân (1968 – 1973), tháng 8/1968, cha từ giáo xứ Tư Tề về nhận giáo xứ Duy Cần, cha đã cho củng cố lại các sinh hoạt chung của giáo xứ, có các thầy về giúp xứ nên đời sống đạo của giáo xứ bắt đầu khởi sắc trở lại, cùng với một số đoàn thể như Hội Đạo Binh Đức Mẹ, Hùng Tâm Dũng Chí… Cuộc chiến tranh ngày càng ác liệt, sáng ngày 27 tháng giêng năm 1973, với đức ái mục tử cha đã hy sinh tính mạng để bảo vệ đàn chiên, ngài chết cháy trong ngôi nhà thờ bị thiêu rụi bởi bom Napan, cùng với thầy giúp xứ Luca Nguyễn Ngọc Thúy, và 2 em Đaminh Nguyễn Văn Cảnh (giúp lễ), và Maria Madalena Nguyễn Thị Kim (chị nuôi nhỏ bé).
Cha Vinh Sơn Nguyễn Đạo Quán (1973 – 1975), tháng 4/1973 cha về với giáo xứ, lúc này có một số gia đình từ Tân Thành - Sài Gòn, Long Hoa - Phan Thiết đến lập nghiệp và thành lập một giáo họ mới, chọn Thánh Vinh Sơn làm bổn mạng. Cha xứ cho xây dựng lại nhà thờ tạm 2 phòng, nhà xứ 1 phòng lợp tranh vách ván, đồng thời làm thêm 4 phòng để dạy văn hóa cho các em thiếu nhi trong giáo xứ. Đầu năm 1974 cha cho khởi công xây dựng nhà thờ mới, ngày 25.12.1974 vùng Tánh Linh - Hoài Đức rơi vào tay chính quyền cách mạng, lúc này một số giáo dân phải tạm lánh về vùng Bình Tuy, sau 30. 4. 1975 mới trở lại giáo xứ, nhà thờ mới hoàn thành được phần móng và các cột bê tông, công trình buộc phải dừng lại vì thiếu kinh phí, tole và các vật liệu khác thất thoát dần.
Cha F.X Đinh Tấn Thời (1975 – 30.10.1994), sau biến cố 1975 giáo xứ gặp rất nhiều khó khăn trong mọi công việc, đất đai nhà thờ bị trưng thu, nghĩa trang buộc di dời, mọi hoạt động tôn giáo bị ngăn cấm. Chỉ có ngày Chúa Nhật mới có Thánh lễ, ngày thường trong tuần cha dâng thánh lễ “chui – cửa đóng then cài, không dám đọc kinh, hát to tiếng”, rất ít giáo dân tham dự, các sinh hoạt khác bị ngăn cản, các đoàn thể tự tan rã, lúc này cha xứ chia các giáo họ theo đơn vị hành chính (có giáo họ 1,2,3,5…). Vào các ngày lễ lớn: Phục Sinh, Giáng Sinh giáo dân khắp các vùng lân cận thuộc 2 huyện Đức Linh, Tánh Linh quy tụ về nhà thờ Gia An để tham dự các nghi thức và Thánh Lễ. Năm 1977-1978 một số giáo dân Tân Mỹ, Quy Lai, Sáo Cát, Lăng Cô… thuộc Tổng địa phận Huế vào lập nghiệp tại Gia An, lập nên Giáo họ mới. Đồng thời năm 1979 có 34 gia đình Công Giáo với 205 giáo dân đi xây dựng vùng kinh tế mới, đa số thuộc hai giáo xứ Bồng Tiên và Cổ Việt từ giáo phận Thái Bình di cư vào Nam và lập nghiệp tại xã Võ Thư – Võ Xu – Đức Linh – Bình Thuận, nên có thêm giáo họ Vũ Hòa, chính số giáo dân này đã giúp tăng thêm sức mạnh cho giáo xứ, bởi lẽ anh em đã quen sống trong chế độ XHCN ở Miền Bắc một thời gian khá dài nên có ít nhiều kinh nghiệm. Tháng 2/1989 do điều kiện thuận lợi, cùng với mong ước của giáo dân cha xứ đã cho tiếp tục xây dựng nhà thờ mới trên nền nhà thờ cũ, như trời hạn gặp mưa rào, bà con giáo dân, nhất là giáo họ Vũ Hòa đã không tiếc công, tiếc của cùng nhau xây dựng nơi thờ phượng Chúa. Ngày 12 tháng 11 năm 1990 công trình đã hoàn thành và được Thánh hiến bởi Đức Cha Nicola Huỳnh Văn Nghi, đây là ngôi thánh đường đầu tiên được khánh thành của giáo phận Phan Thiết kể từ sau biến cố 1975. Ngày 10 tháng 10 năm 1993 Hội Dòng MTG Phan Thiết cử 2 dì: Têrêxa Nguyễn Thị Miều và Maria Nguyễn Thị Loan về thành lập cộng đoàn MTG tại Gia An, sự có mặt của Cộng đoàn MTG các hoạt động của giáo xứ thêm phần phong phú.
Cha Phêrô Nguyễn Thiên Cung (4.11.1994 – 31.8. 2003), cha đến từ giáo xứ Ma Lâm, lúc này bà con giáo dân có tâm lý rất sợ chính quyền cách mạng, chính cha đã khuyên bảo bà con cứ sống đúng tinh thần yêu thương của Chúa, chẳng có gì phải sợ, cha đã hướng dẫn các giáo họ chọn các Thánh Tử đạo Việt Nam làm bổn mạng: Các Giáo họ Matthêu Lê Văn Gẫm, Anrê Nguyễn Kim Thông, Emmanuel Nguyễn Văn Triệu, các ban ngành, đoàn thể được thành lập và đi vào hoạt động rất tích cực, hiệu quả: Ban âm thanh ánh sáng, thể dục thể thao, đại diện phụ huynh học sinh Công Giáo, ẩm thực, khánh tiết, trang trí, hội cầu nguyện… Năm 1998 cha cho xây lại ngôi nhà xứ khang trang đẹp đẽ, nhà xứ cũ thì tu sửa thành các phòng học giáo lý cho thiếu nhi, ngoài ra còn xây thêm 5 phòng làm nhà bếp, nhà kho, nhà vệ sinh, nhà để xe tang…Ngày 31.8.2003 Cha Nguyễn Thiên Cung lên đường du học tại Pháp, thời gian này giáo xứ không có linh mục, nhờ ơn Chúa, giáo xứ có thầy phó tế Giacôbê Tạ Chúc trông coi và cử hành các nghi thức phụng vụ.
Cha Phaolô Lê Quang Luân (5.11.2003 – 27. 2. 2006), thời gian cha ở cùng giáo xứ không nhiều, nhưng cha đã quan tâm xây đựng được một đội ngũ các bộ, nhất là giáo lý viên rất trưởng thành và có trách nhiệm, các lớp giáo lý đi vào nền nếp. Mặc dù phong trào Thiếu nhi Thánh Thể đã sinh hoạt từ trước, nhưng đến ngày 14 tháng 8 năm 2004 ĐGM Phaolô Nguyễn Thanh Hoan mới chính thức ký Quyết định thành lập Đoàn TNTT Giáo xứ Gia An (xứ Đoàn Mẹ Lên Trời). Cũng thời gian này cha xứ đã cho tu sửa nhà thờ, làm mới gian cung thánh, đóng mới trần, thay lại mái tole, xây tường rào bao quanh khuôn viên đất nhà thờ, bê tông hóa các lối đi… (khánh thành trùng tu ngày 15.8.2004).
Cha Giacôbê Tạ Chúc (28. 2. 2006 đến nay). Từ ngày cha đến, ngoài việc phục vụ bàn thánh, xây dựng các đoàn thể, cha rất lưu tâm đến xây dựng cơ sở vật chất cho giáo xứ, cha đã cho xây Nhà thờ giáo họ Vũ Hòa (năm 2008, thánh hiến ngày 20. 2. 2009 - nay đã lên hàng giáo xứ), một công trình quan trọng mà các đời cha xứ trước đây dù có nhiều ước muốn cũng chưa thể làm được, ngài cho xây mới 6 phòng học giáo lý khang trang (năm 2009), tháp chuông mới (năm 2010) với kiểu dáng 5 chân độc đáo, hướng lên trời cao khác lạ so với các kiểu tháp chuông truyền thống. Đặc biệt cha cùng với giáo dân làm đơn đòi lại gần 1000m2 đất trước đây chính quyền đã mượn của nhà thờ, để xây đài Thánh Giuse (năm 2011), mở rộng thêm khuôn viên, bê tông hóa các đường kiệu chung quanh nhà thờ, nâng cao mặt bằng, trồng thêm các cây xanh, và nhiều công trình khác (năm 2012), ngài cho mở rộng thêm gian cung thánh nhà thờ (ngày 6. 8. 2013), nhằm phục vụ bà con giáo dân ngày càng đông đảo, nhất là trong những dịp lễ, tết.
Về đời sống đức tin, đa số giáo dân Gia An là tân tòng trở lại trong phong trào tòng giáo ồ ạt của những năm 1958 – 1962, nên nền tảng đức Tin không vững chắc, vì thế, trong hai biến cố 1963, và 1975, có khá nhiều gia đình bỏ đạo. Một trong những khó hiện nay cho các cha xứ là vấn đề hôn nhân, nhiều đôi rối rắm do sống giữa bà con lương dân nên giải quyết vô cùng phức tạp. Nhiều em lớn tuổi do gia đình khô khan nên chưa được nhận các bí tích.
Hiện nay số giáo dân là 2736, đa số ở trong các đoàn thể như Gia trưởng, Hội các BMCG, Giáo lý viên, Legio Mariae, Hội cầu nguyện, các lớp giáo lý được duy trì thường xuyên, các em lễ sinh, nhóm chia sẻ Lời Chúa hằng tuần, các ca đoàn thanh niên, thiếu nhi… Dưới sự hướng dẫn của cha xứ, cùng với sự cộng tác của cộng đoàn nữ tu thuộc hội dòng MTG Phan Thiết, và HĐMV giáo xứ, các giáo họ, các ban ngành đoàn thể trong những năm qua giáo xứ đã đóng góp cho Giáo Hội 1 linh mục (1998), 4 chủng sinh triều, 5 nam tu sinh các dòng, 6 nữ tu, 4 đệ tử dòng MTG Phan Thiết, Huế, St Paul Sài gòn…
Về mặt tinh thần, nhờ ơn Chúa, dù hoàn cảnh vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng giáo dân đã dần dần trở về với Giáo Hội. Thêm vào đó, một số giáo dân ở các nơi đến lập nghiệp, nên tinh thần của giáo xứ ngày càng đi lên. Đặc biệt những năm gần đây mở ra một phong trào truyền giáo mạnh mẽ, hiệu quả có nhiều người trở lại. Hiện nay giáo xứ có truyền thống đọc kinh chung tại các giáo họ vào đầu mỗi tháng, khoảng 200-250 người tham gia. Thứ tư hằng tuần Hội Gia trường đọc kinh luân phiên giữa các nhóm.
Về mặt văn hóa, trình độ văn hóa trung bình của giáo dân là ở cấp Trung học cơ sở. Nhiều em có trình độ Đại học, cao đẳng nhưng sau khi ra trường đều làm việc tại Sài gòn vì về quê không xin được việc làm.
Đối với công tác xã hội, giáo xứ lưu ý đến những đối tượng như: nghèo khổ, già cả, neo đơn, bệnh tật. Hằng tuần được nhận Mình thánh Chúa, hằng tháng có cha xứ đến giải tội, trao Mình Thánh Chúa tại nhà, hội Legiô liên tục thăm viếng, cầu nguyện giúp đỡ trong khả năng có thể. Từ ngày thành lập Hội nhiều người trở về với Chúa qua các hoạt động tích cực, hiệu quả của hội.
Là một giáo xứ thuộc vùng nông nghiệp (trước năm 1975 có 6ha5, nay chỉ còn gần 1ha2), hiện tại vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, nhưng hy vọng sau khi công trình thủy lợi Tà Pao - Hàm Tân hoàn thành, giáo xứ Gia An sẽ có một tương lai phát triển sáng lạn hơn về mặt kinh tế. Hiện nay một số gia đình Công Giáo đã có vườn cây cao-su, nên đời sống khá ổn định. Ước mong đời sống văn hóa và giáo dục sẽ phát triển theo.
Đặc biệt hướng tới tương lai, giáo xứ đang chú ý đến khía Phúc-âm-hóa đời sống Đức Tin, huấn luyện cán bộ và đẩy mạnh công tác truyền giáo bằng đời sống chứng tá của mình theo thư chung Hội đồng Giám mục Việt Nam.
Cuối năm 1957, một ít giáo dân tân tòng từ giáo phận Quy Nhơn gốc Quảng Ngãi (Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ) được đưa đến khu dinh điền Duy Cần, thuộc xã Gia An, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Tuy và được chia làm 4 ấp: Cần, Kiệm, Liêm, Chính có 28 gia đình Công Giáo thuộc ấp Chính. Đầu năm 1958 có thêm 62 gia đình giáo dân gốc Bắc Ninh từ các xứ đạo vùng Tân Thành, Xóm Mới, Gò Vấp, và Hố Nai đến lập nghiệp. Có thể nói Giáo xứ Gia An ra đời cùng với sự hình thành khu dinh điền mang tên Duy Cần, khu dinh điền đầu tiên trong vùng Tánh Linh - Hoài Đức.
Theo niên giám năm 1964 của Địa phận Nha Trang, giáo xứ Gia An (trước năm 1975, có tên là Duy Cần) được thành lập năm 1958, điạ chỉ: Thôn 3 xã Gia An - huyện Tánh Linh, thuộc hạt Phan Thiết - tỉnh Bình Thuận, , do linh mục Giuse – Maria Phạm Trọng Kim chính xứ tiên khởi, với ngôi nhà thờ lợp tranh vách lá đơn sơ nhỏ bé. Nhờ Ơn Chúa giáo xứ từng bước phát triển, dù gặp muôn vàn khó khăn trở ngại. Số giáo dân (1964) Duy Cần là 1162 với 235 gia đình. Từ khi thành lập cho tới năm nay, giáo xứ luôn luôn có các linh mục phục vụ, cụ thể:
Cha Giuse – Maria Phạm Trọng Kim (1957 – 1958), thời điểm này giáo xứ hầu như chưa có gì, chỉ có ngôi nhà thờ nhỏ lợp tranh.
Cha G.B Trần Xuân Long (1958 – 1964), lúc này cha xứ cho làm lại nhà thờ lợp tole vách ván, nhà xứ tương đối khang trang với 5 phòng học. Đây là thời gian phong trào tòng giáo rất mạnh mẽ, có nhiều lương dân gia nhập đạo, các đoàn thể được xây dựng và phát triển rất tốt. Giáo xứ chọn Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời (15/8) làm bổn mạng. Sau biến cố 1963 một số gia đình trở lại Tân Thành, Gò Vấp, các gia đình tân tòng không tham gia các công việc chung của giáo xứ, lúc này các phong trào đi xuống rỏ rệt, số giáo dân giảm dần…
Cha Phaolô Nguyễn Lộc Huệ (1964 – 1965), vì thời cuộc chiến tranh loạn lạc nên cha chỉ lưu lại thời gian rất ngắn.
Cha Antôn Mai Khắc Cảnh (1965 – 1966), cha về nhận xứ Duy Cần. Vào ngày thứ năm Tuần Thánh (1966), kỷ niệm thành lập Bí tích Thánh Thể và chức linh mục, cha đi Lạc Tánh thăm cha P.X Hoàng Kim Điền, trên đường về, cha bị chính quyền cách mạng lâm thời mời đi học tập cải tạo. Do ốm đau bệnh tật cộng với rừng thiêng nước độc, cha đã qua đời trong núi rừng Tánh Linh. (Hài cốt của ngài được di dời về tại giáo xứ Gia An ngày 21. 6. 1996). Thời gian này, giáo xứ thiếu vắng linh mục cai quản. Được sự quan phòng của Chúa, cha Lê Văn Sinh quản xứ Sùng Nhơn đã về dâng Thánh lễ các ngày Chúa Nhật.
Cha Giuse Nguyễn Thanh Vân (1968 – 1973), tháng 8/1968, cha từ giáo xứ Tư Tề về nhận giáo xứ Duy Cần, cha đã cho củng cố lại các sinh hoạt chung của giáo xứ, có các thầy về giúp xứ nên đời sống đạo của giáo xứ bắt đầu khởi sắc trở lại, cùng với một số đoàn thể như Hội Đạo Binh Đức Mẹ, Hùng Tâm Dũng Chí… Cuộc chiến tranh ngày càng ác liệt, sáng ngày 27 tháng giêng năm 1973, với đức ái mục tử cha đã hy sinh tính mạng để bảo vệ đàn chiên, ngài chết cháy trong ngôi nhà thờ bị thiêu rụi bởi bom Napan, cùng với thầy giúp xứ Luca Nguyễn Ngọc Thúy, và 2 em Đaminh Nguyễn Văn Cảnh (giúp lễ), và Maria Madalena Nguyễn Thị Kim (chị nuôi nhỏ bé).
Cha Vinh Sơn Nguyễn Đạo Quán (1973 – 1975), tháng 4/1973 cha về với giáo xứ, lúc này có một số gia đình từ Tân Thành - Sài Gòn, Long Hoa - Phan Thiết đến lập nghiệp và thành lập một giáo họ mới, chọn Thánh Vinh Sơn làm bổn mạng. Cha xứ cho xây dựng lại nhà thờ tạm 2 phòng, nhà xứ 1 phòng lợp tranh vách ván, đồng thời làm thêm 4 phòng để dạy văn hóa cho các em thiếu nhi trong giáo xứ. Đầu năm 1974 cha cho khởi công xây dựng nhà thờ mới, ngày 25.12.1974 vùng Tánh Linh - Hoài Đức rơi vào tay chính quyền cách mạng, lúc này một số giáo dân phải tạm lánh về vùng Bình Tuy, sau 30. 4. 1975 mới trở lại giáo xứ, nhà thờ mới hoàn thành được phần móng và các cột bê tông, công trình buộc phải dừng lại vì thiếu kinh phí, tole và các vật liệu khác thất thoát dần.
Cha F.X Đinh Tấn Thời (1975 – 30.10.1994), sau biến cố 1975 giáo xứ gặp rất nhiều khó khăn trong mọi công việc, đất đai nhà thờ bị trưng thu, nghĩa trang buộc di dời, mọi hoạt động tôn giáo bị ngăn cấm. Chỉ có ngày Chúa Nhật mới có Thánh lễ, ngày thường trong tuần cha dâng thánh lễ “chui – cửa đóng then cài, không dám đọc kinh, hát to tiếng”, rất ít giáo dân tham dự, các sinh hoạt khác bị ngăn cản, các đoàn thể tự tan rã, lúc này cha xứ chia các giáo họ theo đơn vị hành chính (có giáo họ 1,2,3,5…). Vào các ngày lễ lớn: Phục Sinh, Giáng Sinh giáo dân khắp các vùng lân cận thuộc 2 huyện Đức Linh, Tánh Linh quy tụ về nhà thờ Gia An để tham dự các nghi thức và Thánh Lễ. Năm 1977-1978 một số giáo dân Tân Mỹ, Quy Lai, Sáo Cát, Lăng Cô… thuộc Tổng địa phận Huế vào lập nghiệp tại Gia An, lập nên Giáo họ mới. Đồng thời năm 1979 có 34 gia đình Công Giáo với 205 giáo dân đi xây dựng vùng kinh tế mới, đa số thuộc hai giáo xứ Bồng Tiên và Cổ Việt từ giáo phận Thái Bình di cư vào Nam và lập nghiệp tại xã Võ Thư – Võ Xu – Đức Linh – Bình Thuận, nên có thêm giáo họ Vũ Hòa, chính số giáo dân này đã giúp tăng thêm sức mạnh cho giáo xứ, bởi lẽ anh em đã quen sống trong chế độ XHCN ở Miền Bắc một thời gian khá dài nên có ít nhiều kinh nghiệm. Tháng 2/1989 do điều kiện thuận lợi, cùng với mong ước của giáo dân cha xứ đã cho tiếp tục xây dựng nhà thờ mới trên nền nhà thờ cũ, như trời hạn gặp mưa rào, bà con giáo dân, nhất là giáo họ Vũ Hòa đã không tiếc công, tiếc của cùng nhau xây dựng nơi thờ phượng Chúa. Ngày 12 tháng 11 năm 1990 công trình đã hoàn thành và được Thánh hiến bởi Đức Cha Nicola Huỳnh Văn Nghi, đây là ngôi thánh đường đầu tiên được khánh thành của giáo phận Phan Thiết kể từ sau biến cố 1975. Ngày 10 tháng 10 năm 1993 Hội Dòng MTG Phan Thiết cử 2 dì: Têrêxa Nguyễn Thị Miều và Maria Nguyễn Thị Loan về thành lập cộng đoàn MTG tại Gia An, sự có mặt của Cộng đoàn MTG các hoạt động của giáo xứ thêm phần phong phú.
Cha Phêrô Nguyễn Thiên Cung (4.11.1994 – 31.8. 2003), cha đến từ giáo xứ Ma Lâm, lúc này bà con giáo dân có tâm lý rất sợ chính quyền cách mạng, chính cha đã khuyên bảo bà con cứ sống đúng tinh thần yêu thương của Chúa, chẳng có gì phải sợ, cha đã hướng dẫn các giáo họ chọn các Thánh Tử đạo Việt Nam làm bổn mạng: Các Giáo họ Matthêu Lê Văn Gẫm, Anrê Nguyễn Kim Thông, Emmanuel Nguyễn Văn Triệu, các ban ngành, đoàn thể được thành lập và đi vào hoạt động rất tích cực, hiệu quả: Ban âm thanh ánh sáng, thể dục thể thao, đại diện phụ huynh học sinh Công Giáo, ẩm thực, khánh tiết, trang trí, hội cầu nguyện… Năm 1998 cha cho xây lại ngôi nhà xứ khang trang đẹp đẽ, nhà xứ cũ thì tu sửa thành các phòng học giáo lý cho thiếu nhi, ngoài ra còn xây thêm 5 phòng làm nhà bếp, nhà kho, nhà vệ sinh, nhà để xe tang…Ngày 31.8.2003 Cha Nguyễn Thiên Cung lên đường du học tại Pháp, thời gian này giáo xứ không có linh mục, nhờ ơn Chúa, giáo xứ có thầy phó tế Giacôbê Tạ Chúc trông coi và cử hành các nghi thức phụng vụ.
Cha Phaolô Lê Quang Luân (5.11.2003 – 27. 2. 2006), thời gian cha ở cùng giáo xứ không nhiều, nhưng cha đã quan tâm xây đựng được một đội ngũ các bộ, nhất là giáo lý viên rất trưởng thành và có trách nhiệm, các lớp giáo lý đi vào nền nếp. Mặc dù phong trào Thiếu nhi Thánh Thể đã sinh hoạt từ trước, nhưng đến ngày 14 tháng 8 năm 2004 ĐGM Phaolô Nguyễn Thanh Hoan mới chính thức ký Quyết định thành lập Đoàn TNTT Giáo xứ Gia An (xứ Đoàn Mẹ Lên Trời). Cũng thời gian này cha xứ đã cho tu sửa nhà thờ, làm mới gian cung thánh, đóng mới trần, thay lại mái tole, xây tường rào bao quanh khuôn viên đất nhà thờ, bê tông hóa các lối đi… (khánh thành trùng tu ngày 15.8.2004).
Cha Giacôbê Tạ Chúc (28. 2. 2006 đến nay). Từ ngày cha đến, ngoài việc phục vụ bàn thánh, xây dựng các đoàn thể, cha rất lưu tâm đến xây dựng cơ sở vật chất cho giáo xứ, cha đã cho xây Nhà thờ giáo họ Vũ Hòa (năm 2008, thánh hiến ngày 20. 2. 2009 - nay đã lên hàng giáo xứ), một công trình quan trọng mà các đời cha xứ trước đây dù có nhiều ước muốn cũng chưa thể làm được, ngài cho xây mới 6 phòng học giáo lý khang trang (năm 2009), tháp chuông mới (năm 2010) với kiểu dáng 5 chân độc đáo, hướng lên trời cao khác lạ so với các kiểu tháp chuông truyền thống. Đặc biệt cha cùng với giáo dân làm đơn đòi lại gần 1000m2 đất trước đây chính quyền đã mượn của nhà thờ, để xây đài Thánh Giuse (năm 2011), mở rộng thêm khuôn viên, bê tông hóa các đường kiệu chung quanh nhà thờ, nâng cao mặt bằng, trồng thêm các cây xanh, và nhiều công trình khác (năm 2012), ngài cho mở rộng thêm gian cung thánh nhà thờ (ngày 6. 8. 2013), nhằm phục vụ bà con giáo dân ngày càng đông đảo, nhất là trong những dịp lễ, tết.
Về đời sống đức tin, đa số giáo dân Gia An là tân tòng trở lại trong phong trào tòng giáo ồ ạt của những năm 1958 – 1962, nên nền tảng đức Tin không vững chắc, vì thế, trong hai biến cố 1963, và 1975, có khá nhiều gia đình bỏ đạo. Một trong những khó hiện nay cho các cha xứ là vấn đề hôn nhân, nhiều đôi rối rắm do sống giữa bà con lương dân nên giải quyết vô cùng phức tạp. Nhiều em lớn tuổi do gia đình khô khan nên chưa được nhận các bí tích.
Hiện nay số giáo dân là 2736, đa số ở trong các đoàn thể như Gia trưởng, Hội các BMCG, Giáo lý viên, Legio Mariae, Hội cầu nguyện, các lớp giáo lý được duy trì thường xuyên, các em lễ sinh, nhóm chia sẻ Lời Chúa hằng tuần, các ca đoàn thanh niên, thiếu nhi… Dưới sự hướng dẫn của cha xứ, cùng với sự cộng tác của cộng đoàn nữ tu thuộc hội dòng MTG Phan Thiết, và HĐMV giáo xứ, các giáo họ, các ban ngành đoàn thể trong những năm qua giáo xứ đã đóng góp cho Giáo Hội 1 linh mục (1998), 4 chủng sinh triều, 5 nam tu sinh các dòng, 6 nữ tu, 4 đệ tử dòng MTG Phan Thiết, Huế, St Paul Sài gòn…
Về mặt tinh thần, nhờ ơn Chúa, dù hoàn cảnh vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng giáo dân đã dần dần trở về với Giáo Hội. Thêm vào đó, một số giáo dân ở các nơi đến lập nghiệp, nên tinh thần của giáo xứ ngày càng đi lên. Đặc biệt những năm gần đây mở ra một phong trào truyền giáo mạnh mẽ, hiệu quả có nhiều người trở lại. Hiện nay giáo xứ có truyền thống đọc kinh chung tại các giáo họ vào đầu mỗi tháng, khoảng 200-250 người tham gia. Thứ tư hằng tuần Hội Gia trường đọc kinh luân phiên giữa các nhóm.
Về mặt văn hóa, trình độ văn hóa trung bình của giáo dân là ở cấp Trung học cơ sở. Nhiều em có trình độ Đại học, cao đẳng nhưng sau khi ra trường đều làm việc tại Sài gòn vì về quê không xin được việc làm.
Đối với công tác xã hội, giáo xứ lưu ý đến những đối tượng như: nghèo khổ, già cả, neo đơn, bệnh tật. Hằng tuần được nhận Mình thánh Chúa, hằng tháng có cha xứ đến giải tội, trao Mình Thánh Chúa tại nhà, hội Legiô liên tục thăm viếng, cầu nguyện giúp đỡ trong khả năng có thể. Từ ngày thành lập Hội nhiều người trở về với Chúa qua các hoạt động tích cực, hiệu quả của hội.
Là một giáo xứ thuộc vùng nông nghiệp (trước năm 1975 có 6ha5, nay chỉ còn gần 1ha2), hiện tại vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, nhưng hy vọng sau khi công trình thủy lợi Tà Pao - Hàm Tân hoàn thành, giáo xứ Gia An sẽ có một tương lai phát triển sáng lạn hơn về mặt kinh tế. Hiện nay một số gia đình Công Giáo đã có vườn cây cao-su, nên đời sống khá ổn định. Ước mong đời sống văn hóa và giáo dục sẽ phát triển theo.
Đặc biệt hướng tới tương lai, giáo xứ đang chú ý đến khía Phúc-âm-hóa đời sống Đức Tin, huấn luyện cán bộ và đẩy mạnh công tác truyền giáo bằng đời sống chứng tá của mình theo thư chung Hội đồng Giám mục Việt Nam.